Showing posts with label Phương Đông. Show all posts
Showing posts with label Phương Đông. Show all posts

Wednesday, May 4, 2016

Giáo sư Lưu Lệ Hằng - Nhà thiên văn vật lý hàng đầu thế giới

Sau giáo sư Trịnh Xuân Thuận, nữ giáo sư Lưu Lệ Hằng tr thành nhà Thiên văn học người Mỹ gốc Việt thứ 2 toả sáng trong bầu trời các nhà thiên văn vật lý hàng đầu thế giới.
Giáo sư Lưu Lệ Hằng, tên tiếng Mỹ là Jane X. Lưu, còn thường được gọi là Janne Lưu, sinh năm 1963 ở miền Nam Việt Nam và lớn lên ở Sài Gòn (nay là TP. Hồ Chí Minh). Sau đó bà theo gia đình sang Mỹ, đến tiểu bang Kentucky. Tình cờ, sau một chuyến tham quan phòng thí nghiệm sức đẩy phản lực, bị hấp dẫn bởi phòng thí nghiệm các phi thuyền với các sứ mệnh vũ trụ, bà quyết định chọn ngành thiên văn học. Bà thi đậu vào trường Đại học Stanford (California), tốt nghiệp cử nhân vật lý năm 1984. Bà làm nghiên cứu sinh tại Đại học California tại Baerkeley và Học viện công nghệ Massachusetts dưới sự hướng dẫn của giáo sư David C.Jewitt. Sau 5 năm quan sát, vào năm 1992, họ tìm đã phát hiện ra vật thể đầu tiên trong vành đai Kuiper (các thiên thể nằm ngoài sao Hải Vương) và sau đó phát hiện ra vành đai này với khoảng 70.000 thiên thạch. Phát hiện này là một bước tiến lớn trong việc tìm hiểu hành tinh hệ mặt trời.
(Ảnh: Nữ Giáo sư Lưu Lệ Hằng)
 Năm 1991, bà nhận giải thưởng Annie J.Cannon thiên văn học của Hội Thiên văn học Mỹ, năm 1992 nhận bằng tiến sĩ tại Học viện Massachusette và học bổng Hubble của Đại học Califomiai Baerker Tên bà được đặt cho một tiểu hành tinh (5430 Luu) để vinh danh.
Sau đó bà trở thành giáo sư tại Đại học Harvard và cũng từng làm giáo sư tại Đại học Leiden (Hà Lan) rồi trở lại Mỹ làm thành viên kỹ thuật thiết bị ở Phòng thí nghiệm Lincoln, Học viện Massaehusette.
Năm 2004, giáo sư Lưu Lệ Hằng và người thầy, người đồng nghiệp David C.Jewitt thông báo phát hiện tinh thể bằng nước trên tiểu hành tinh Quaoar, vật thể lớn nhất trong vành đai Kuier được biết đến vào thời điểm đó.
Từ 1993 đến 1995, bà cùng 7 đồng nghiệp đã phát hiện ra 31 tiểu hành tinh. Ngoài giải thưởng Annie J. Cannon thiên văn học của Hội Thiên văn học Mỹ (1991), giáo sư Lưu Lệ Hằng còn được trao 2 giải thưởng lớn cũng vào năm 2012. Giải Giải thưởng Thiên văn học 2012 được trao cho công trình khám phá ra vành đai Kuiper của ba nhà thiên văn học Mỹ, các giáo sư: David C. Jewitt, Jane X. Lưu (Lưu Lệ Hằng) và Michael E. Brown. Giải này được coi như giải Nobel Thiên văn học của thế giới. Bà và giáo sư David C. Jewitt lại tiếp tục nhận Giải Shaw Thiên văn học 2012 về công lao định danh các vật thể ngoài Hải Vương tinh. Giải này được coi như Nobel Thiên văn học của châu Á.
(Nguồn: Kiến thức phổ thông)

Monday, April 25, 2016

Thời trung đại và Thành Cát Tư Hãn

Thời trung đại
Thời trung đại là thời kì lịch sử nằm sau cổ đại và trước cận đại, tức "thời kì ở giữa". Khái niệm chung là như vậy, nhưng không phải lúc nào cũng rạch ròi hay thống nhất vì nhiều cách nhìn nhận.
Nhiều sử gia châu Âu tính mốc thời này từ sự sụp đổ của đế quốc La Mã (476) đến 1488 với cuộc phát kiến địa lí đầu tiên tìm thấy mũi Hảo Vọng. Cách phân đoạn như vậy chỉ có thể ứng với lịch sử Tây Âu. Về sau nhiều nhà sử học gắn ý nghĩa của thời trung đại với thời kì tồn tại chủ yếu của chế độ phong kiến. Tuy cách phân đoạn này làm vấn đề sẽ phức tạp hơn vì năm bắt đầu và kết thúc của chế độ phong kiến ở mỗi nước khác nhau, ở châu Âu từ TK 16 - TK 18, ở châu Á là TK 19, nhưng mang lại được một số đặc trưng chung của một giai đoạn lịch sử trên toàn thế giới. 
(Ảnh: Thành Cát Tư Hãn)
 Trong các vị vua và tướng kiệt xuất của châu Á trong thời trung đại, vị vua và tướng kỳ tài người Mông Cổ Thành Cát Tư Hãn (1162-1227) được coi là người có dã tâm xâm lược và tài năng lớn bậc nhất.
Sự nghiệp của ông bắt đầu từ việc thống nhất các bộ tộc Mông cổ, được các thủ lĩnh trong liên minh bầu làm Đại Hãn (Vua của cả thế giới). Tiếp đó ông thôn tính các nước Tây Á, Trung Quốc, rồi đánh chiếm sang châu Âu, tràn đến tận Biển Đen ngăn châu Âu với Tiểu Á.
Tài năng quân sự của ông được các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao. Thành Cát Tư Hãn tổ chức quân đội mình thành các nhóm theo cơ số 10 (10 - thập hộ, 100 - bách hộ, 1.0001 thiên hộ, 10.000 vạn hộ) và chủ yếu là các kỵ binh nhẹ rất giỏi bắn cung. Cách tổ chức này cho phép đoàn quân của ông tấn công ồ ạt, dễ bao vây và dẫn kẻ địch vào vùng mai phục. Kỵ binh ông vượt trội về thiện chiến và sự linh hoạt trước kỵ binh châu Âu giáp trụ cồng kềnh, chậm chạp.
 (Ảnh: Chiến sĩ của Thành Cát Tư Hãn)
Đặc biệt, trong các trận chiến, ngay cả khi đối thủ bỏ chạy, Thành Cát Tư Hãn cũng không buông tha. Ông ra lệnh cho quân của mình truy kích đến cùng khiến cho các thủ lĩnh của đối phương suy sụp hoàn toàn, phải đầu hàng quy phục hoặc bị thảm sát, không cho họ cơ hội tập hợp, phục hồi lực lượng.
Triết lý quân sự mà cả đời Thành Cát Tư Hãn thực hiện là làm sao chiến thắng kẻ thù nhanh nhất, ít thiệt hại nhất nhờ sức mạnh, sự linh hoạt của các kỵ binh và tâm lý chiến.
Về tâm lý chiến, Thành Cát Tư Hãn được đánh giá là một bậc thầy về nghệ thuật chiến tranh tâm lý. Trước khi tấn công các thành trì đối phương, ông thường cho loan báo và gửi những lời đe dọa gây hoang mang, nếu đối phương không chấp nhận ông sẽ tấn công tiêu diệt toàn bộ. Sau đó ông thường cố tình cho bỏ sót hay thả vài người bị bắt để lan truyền sự sợ hãi tới với những thành trì tiếp theo.
Chiếm được vùng nào, Thành Cát Tư Hãn lập tức sáp nhập ngaỵ vào đế chế cùa mình. Vào thời cực thịnh, đế chế Mông cổ là lớn nhất lịch sử loài người, trải dài từ Đông Nam Á tới châu Âu trên diện tích lên đến 35 triệu km2. Toàn bộ đế chế phải tuân thủ bộ luật mà Thành Cát Tư Hãn đã cho làm ra với chữ viết của người Mông Cổ.
(Nguồn: Kiến thức phổ thông)