Showing posts with label Cuộc Sống. Show all posts
Showing posts with label Cuộc Sống. Show all posts

Sunday, March 26, 2017

Sống vui vẻ, hài hước

"Hài hước một chút thế giới sẽ khác đi" do The Bookworm biên soạn, NXB Thanh Niên và Minh Long Book phối hợp xuất bản. Thuộc thể loại sách kỹ năng nhưng với nhiều câu chuyện thuyết phục, sách cuốn hút người đọc qua từng chuyên mục và vui cười bởi những ví dụ dí dỏm, thông minh.
"Hài hước một chút thế giới sẽ khác đi" chinh phục người đọc bằng những câu chuyện minh họa vừa cười, vừa ngẫm về tác dụng tuyệt vời của hài hước trong đời sống. Sách chia làm 5 chương, trình bày về những nguyên tắc hài hước của người thành công, trong đời sống hôn nhân, giao tiếp, đàm phán và nghề nghiệp. Mỗi chương gồm nhiều đề mục nhỏ với các lập luận sắc sảo và các dẫn chứng sinh động, thú vị.
(Sống vui vẻ)
Sách có những câu chuyện về ứng xử thông minh, hài hước của những nhân vật nổi tiếng như Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln, Thủ tướng Anh Churchill, triết gia Socrates, nhà thơ Đức Goethe… cho đến những câu chuyện bình dị, gần gũi trong đời thường. Tất cả cho thấy: biết cách hài hước đúng mực không những mang lại niềm vui trong cuộc sống, tinh thần lạc quan, thiện cảm của mọi người mà còn là bí quyết thành công trong giao tiếp, công việc. Do đó, người đọc dễ dàng bị cuốn hút theo những trang viết về các vấn đề, kỹ năng vận dụng sự hài hước như: nhìn nhận thế giới từ góc độ thú vị, quân tử hùng biện- hài hước hỗ trợ, nghệ thuật tự trào, ca thán cũng phải dễ nghe, hài hước khiến đối phương thay đổi, khéo léo dùng sự hài hước để giải tỏa không khí nặng nề…
Tuy nhiên, không phải ai sinh ra cũng có khiếu hài hước nên muốn có được kỹ năng này phải chịu khó rèn luyện, học hỏi. Sách đưa ra những lời khuyên và những gợi ý tích cực để người đọc vận dụng một cách hiệu quả. Đó là cần phải đọc nhiều sách để nâng cao kiến thức của bản thân, bồi dưỡng một tâm hồn cao thượng và niềm tin lạc quan, nâng cao khả năng quan sát và trí tưởng tượng, mở rộng quan hệ giao tiếp, đừng hài hước tùy tiện, hài hước phải tao nhã, khi không thể hài hước thì đừng cố…
Dẫn chứng cho điều này là trường hợp của cựu Tổng thống Mỹ Reagan. Ông vốn không phải là người hài hước nhưng ông đã dùng một biện pháp "thủ công" nhất: mỗi ngày học thuộc một câu chuyện cười. Dần dần, ông đã có thể phản xạ, ứng biến các tình huống một cách nhanh trí, thông minh và tạo được tiếng cười cho mọi người. Chẳng hạn, khi ông đang phát biểu trong một buổi trình diễn piano ở Nhà Trắng thì phu nhân của ông không cẩn thận ngã cả người và ghế xuống thảm. Thấy vợ của mình không bị thương, Reagan liền hài hước chêm vào một câu: "Em yêu, anh từng nói với em rồi, chỉ khi anh không được mọi người vỗ tay thì em mới cần làm như thế". Phút chốc, tiếng vỗ tay và tiếng cười xóa tan không khí ngượng ngùng (trang 134).
Bên cạnh những kỹ năng để có được sự hài hước thì nhóm biên soạn còn gửi đến độc giả một thông điệp ý nghĩa: "Chỉ cần bạn có thái độ tích cực, lạc quan với cuộc sống thì sự hài hước sẽ luôn ở bên bạn".
Nguồn: baocantho.com.vn

Friday, March 10, 2017

Sống phải có bản lĩnh

‘Mệnh’ là cái cớ của kẻ thất bại, ‘vận’ là lời khiêm tốn của người thành công
Làm người, chỉ số IQ cao hay thấp cũng không sao, chỉ số EQ thế nào cũng không thành vấn đề, nói thẳng ra, bạn có thể không thông minh, cũng có thể không giỏi về giao tiếp xã hội, nhưng nhất định phải bản lĩnh.
(Ảnh minh họa)

Làm người có khí phách lớn, thì sẽ có thành công lớn. Bởi vì ý chí, mới là tiêu chuẩn của người thành công.
Nếu chỉ một chút trở ngại đã khiến bạn quỵ ngã,
Nếu chỉ một hai lời nói xấu cũng làm bạn tức giận,
Nếu hơi một chút là đã ghét, căm hận người khác,
Vậy thì bản lĩnh của bạn thật quá nhỏ…
Hãy ghi nhớ một câu nói: Càng cố gắng càng gặp may.
Bỏ nóng nảy, bỏ lười biếng, làm trống rỗng phần não không cưỡng nổi quyến rũ, mở to đôi mắt dễ bị mọi thứ lôi cuốn.
Tĩnh tâm để làm tốt việc bạn cần làm, nỗ lực hết mình để đạt được mục tiêu. Khi bạn thật sự cố gắng, bạn sẽ phát hiện rằng mình xuất sắc hơn so với tưởng tượng rất nhiều.
Trên đời này ngoại trừ việc sinh tử, thì các việc khác đều là chuyện nhỏ. Bất kể bạn gặp chuyện phiền não gì, đều không nên làm khó dễ cho chính mình.
Bất luận hôm nay xảy ra chuyện tồi tệ gì, thì cũng đừng bao giờ thất vọng về cuộc sống, bởi vì vẫn còn có ngày mai.
Điều tuyệt diệu chỉ chờ đợi những người đang tiến về phía trước
Người có mục tiêu đang chạy băng băng, người không có mục tiêu đang lạc lối, bởi vì họ không biết phải đi đâu!
Người có mục tiêu đang cảm ơn, người không có mục tiêu đang oán trách, bởi vì họ cho rằng cả thế giới đều nợ họ!
Người có mục tiêu ngủ không được, người không có mục tiêu ngủ không dậy, bởi vì không biết thức dậy rồi sẽ làm gì!
Lúc cảm thấy khổ não chính là lúc bản thân vỡ lẽ ra rằng: Dễ đi thì chính là đường xuống dốc! Đang trong chịu đựng là vì bạn đang đi lên dốc, đi qua rồi, bạn nhất định sẽ có tiến bộ.
Nếu bạn đang oán trách vận mệnh không chiếu cố, vậy thì hãy ghi nhớ: “Mệnh, là cái cớ của người thất bại; Vận, là lời nói khiêm tốn của người thành công”.
Mặc dù mệnh là do thiên định, nhưng thiên định không có nghĩa là để mặc mọi thứ ra sao thì ra, càng không phải để oán trách, bởi đó chỉ là một kiểu biểu hiện của nhu nhược; nỗ lực hết mình mới là thái độ cần có của cuộc đời!

(Nguồn: Ts. Lê Thẩm Dương)

Sunday, December 4, 2016

Tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam và nhu cầu tuyển dụng hiện nay

Trong quý III, nhu cầu tuyển dụng và người đi tìm việc làm đều tăng, song doanh nghiệp chủ yếu cần lao động phổ thông; nhóm có chuyên môn kế toán, ngân hàng không có nhiều cơ hội.

Ngày 2/12, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cập nhật thông tin thị trường lao động quý III năm 2016. Cả nước có 1,1 triệu người thất nghiệp, tăng 29.000 người so với quý II nhưng giảm so với cùng kỳ năm trước. Trong số 456.000 người trình độ chuyên môn kỹ thuật thất nghiệp, có 202.000 người tốt nghiệp đại học trở lên.
Trong quý này, thất nghiệp tăng về tỷ lệ và số lượng, đặc biệt là trong nhóm thanh niên. Tỷ lệ thanh niên thành thị thất nghiệp là 8,78%, gấp gần 4 lần tỷ lệ thất nghiệp chung (2,34%).
(Ảnh: minh họa)
Ông Đào Quang Vinh, Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội cho biết, thị trường lao động đang có sự mất cân đối ở một số nghề. Nhu cầu tuyển dụng và số người đi tìm việc làm đều tăng, song các doanh nghiệp tuyển nhiều nhất vẫn là lao động phổ thông (68%), may mặc khoảng (12%). Trong khi đó, người có chuyên môn kế toán - kiểm toán, tài chính - ngân hàng thuộc nhóm đi tìm việc nhiều nhất nhưng không có nhiều cơ hội.
Do điều chỉnh lương tối thiểu, thu nhập bình quân của lao động làm công hưởng lương là 4,93 triệu/tháng, tăng 80.000 đồng so với quý II. Theo khảo sát, lao động làm việc trong ngành kinh doanh bất động sản có thu nhập cao nhất, tiếp theo là nhóm tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.

Thứ trưởng Bộ Lao động Doãn Mậu Diệp cho hay, qua 9 tháng, kinh tế phát triển nhưng chậm so với cùng kỳ. "Khó khăn về công ăn việc làm, số người thất nghiệp gia tăng vẫn là thách thức lớn", ông nói.
(Nguồn: theo Vnexpress.net)

Friday, December 2, 2016

Trường học và trường đời - bề ngoài nên vâng lời tuyệt đối, còn bên trong cần tỉnh táo và gắng sức nổi loạn

Có những người xuất sắc ở trường học nhưng thảm bại ở trường đời, và ngược lại.
Chúng ta đều muốn trở thành những cá nhân xuất sắc ở trường vì một lý do hiển nhiên vẫn thường nghe: trường học là đoạn đường quan trọng để vững bước vào đời.
Về bản chất, chẳng mấy ai thực tình yêu thích điểm 10. Chúng ta muốn đạt điểm cao vì tất nhiên là ai cũng muốn sau này sẽ có một sự nghiệp toàn vẹn, một ngôi nhà thoải mái và sự ngưỡng mộ của mọi người xung quanh.
 Nhưng đôi khi, có một điều khó hiểu lại xảy ra thường xuyên hơn cái thứ dường như được công nhận tuyệt đối ở trên: có những người xuất sắc ở trường học nhưng thảm bại ở trường đời, và ngược lại.
(Ảnh minh họa)
Ngôi sao ở trường hợp thứ nhất, người từng biết chính xác cách làm hài lòng giáo viên bây giờ có lẽ đang bị xếp dưới đáy ở văn phòng nào đó, hoặc chuyển về tỉnh thị với hi vọng tìm được việc tốt hơn. Con đường tưởng như dẫn chắc đến thành công cuối cùng lại khiến họ đâm vào cát bụi.
 Thật ra, chúng ta không cần phải ngạc nhiên: chương trình giảng dạy ở trường không phải do những người thực sự giàu kinh nghiệm, am hiểu hay tài ba về thế giới ngoài kia thiết kế nên. Các thể loại giáo trình không được xây dựng dựa trên cuộc đời viên mãn thực sự của những con người đang sống trong thời điểm hiện tại. Thay vào đó, tri thức từ chúng bị ảnh hưởng bởi đủ kiểu thế lực chạy suốt hơn một trăm năm phát triển – trong đó chủ yếu là giáo trình của các tu viện thời Trung cổ, quan điểm của một số học giả Đức ở thế kỷ XIX, và mối quan tâm của những tầng lớp quý tộc.
Điều này giúp lý giải muôn vàn tật xấu mà trường học tiêm nhiễm:
o Họ ngụ ý rằng những điều quan trọng nhất đã được khám phá, và mọi điều trong sách đã là chân lý rồi. Họ chẳng giúp gì ngoài việc cảnh báo chúng ta về mối hiểm nguy của tính nguyên bản.
o Họ muốn chúng ta giơ tay lên để chờ được chọn. Họ muốn chúng ta liên tục xin phép sự đồng thuận từ người khác.
o Họ dạy ta nuôi dưỡng hơn là thay đổi kỳ vọng.
o Họ dạy ta sắp xếp lại các ý tưởng đã có sẵn hơn là phát minh ra cái mới.
o Họ dạy ta kì vọng rằng những người có chức quyền biết tất tật - thay vì cho phép ta tưởng tượng ra theo những cách đầy cảm hứng rằng không ai thực sự nắm được chuyện gì đang xảy ra cả.
 o                Họ dạy ta tin rằng họ luôn trăn trở về những lợi ích lớn nhất, tốt nhất và gắn liền với cả cuộc đời của ta mà không tiết lộ rằng họ thực tình chỉ hứng thú với những thành tích ta đạt được ở các khóa học thử thách thiển cận và hạn hẹp mà họ đặt ra. Họ chẳng cứu được ta và càng không bao giờ có động lực để làm điều đó.
o Họ dạy ta tất cả mọi thứ ngoại trừ hai kỹ năng thực sự quyết định vận mệnh cuộc sống sau này: biết cách chọn công việc phù hợp cho mình và biết cách tạo lập những mối quan hệ mĩ mãn. Họ sẽ chỉ ta tiếng Latin và cách tính chu vi đường tròn trước khi dạy ta những môn học cốt lõi: Lao động và Yêu thương.
Nói như vậy không có nghĩa là tất cả những gì ta cần làm để thành công trong cuộc sống là cứ đội sổ ở trường học. Một cuộc sống tốt đẹp đòi hỏi ta làm hai thứ khó nhằn: trở thành một học trò cực kỳ ngoan ngoãn trong 20 năm, và đồng thời không bao giờ mù quáng tin rằng những thứ chúng ta bị bắt học có giá trị và tầm quan trọng dài lâu.

 Chúng ta, bề ngoài nên vâng lời tuyệt đối, còn bên trong cần tỉnh táo và gắng sức “nổi loạn”.
(Nguồn: Sưu tầm)

Nếu thông minh, tại sao bạn lại không hạnh phúc

Một tác phẩm học thuật đã chỉ ra rằng, sau khi đã đáp ứng được các nhu cầu cơ bản, người ta cần ba nguyên liệu sau cho hạnh phúc: các mối quan hệ xã hội thiết thực, thành đạt trong công việc, và tự do đưa ra các quyết định độc lập.
Nhưng một công trình nghiên cứu về hạnh phúc đã chỉ ra một sự thực ít người để ý: học hành tử tế hơn, giàu có hơn, hay thành đạt hơn chẳng có liên quan nhiều đến việc họ có hạnh phúc hay không. Hay nói cách khác, một người như thế ít có khả năng cảm thấy hài lòng với cuộc sống hơn.
Raj Raghunathan, Giáo sư chuyên ngành marketing, trường Kinh doanh Austin’ McCombs thuộc Đại Học Texas, đã cố gắng lí giải vấn đề hóc búa này trong cuốn sách gần đây If You’re so Smart, Why aren’t You Happy (tạm dịch: Nếu thông minh, tại sao bạn lại không hạnh phúc). Cuốn sách của Raghunathan được xếp vào nhóm sách self-help (gồm có các bài nói chuyện truyền cảm hứng, và bài tập đánh giá sự tiến bộ), nhưng những cam kết của ông đối với nghiên cứu khoa học đã tạo nền móng vững chắc cho thể loại này với những hướng tiếp cận sắc sảo hơn.
(Ảnh minh họa)

 Gần đây tôi đã có buổi trò chuyện với Raghunathan về cuốn sách của ông. Bài phỏng vấn dưới đây đã được biên tập và cô đọng giúp người đọc dễ hiểu.
Joe Pinsker: Một trong những cơ sở của cuốn sách là người đọc có thể có ý niệm về những thứ khiến họ hạnh phúc, nhưng cách họ tiếp cận những thứ đó lại khiến họ không thể có được hạnh phúc tối đa. Ông có thể đưa ra ví dụ cho sự mâu thuẫn này không?
Raj Raghunathan: Nếu muốn giỏi giang, tinh thông trong một lĩnh vực nào đó, bạn có thể xem xét hai hướng tiếp cận lớn sau. Thứ nhất là quan tâm đến cái người ta vẫn gọi là so sánh xã hội, hay chính là muốn trở thành người giỏi nhất trong lĩnh vực đó chẳng hạn như “Tôi muốn trở thành giáo sư giỏi nhất”, hoặc đại loại như thế.
Hướng tiếp cận này tồn tại nhiều vấn đề, trong đó một vấn đề lớn là rất khó đánh giá. Tiêu chuẩn nào để đánh giá một người trong một lĩnh vực cụ thể? Tiêu chuẩn nào để trở thành giáo sư giỏi nhất? Có liên quan đến nghiên cứu, giảng dạy không? Nếu như chỉ làm công tác giảng dạy, thước đo đó có phải là đánh giá từ học sinh, là nội dung giảng dạy ở lớp học, hay là số lượng học sinh làm bài kiểm tra điểm cao hay số lượng học sinh thi đỗ? Nói chung, việc đánh giá gặp khó khăn bởi vì các tiêu chuẩn đánh giá càng trở nên nhập nhằng trong các lĩnh vực nhỏ hơn hay thiên về kĩ thuật nhiều hơn.
Thông thường mọi người sẽ hướng đến các tiêu chuẩn ít mơ hồ hơn – kể cả nếu chúng chẳng hề ăn nhập. Mọi người đánh giá những giáo sư giỏi nhất thông qua số lượng giải thưởng hay mức lương họ nhận được, hoặc ngôi trường họ đang công tác. Nhìn qua chúng có vẻ là những tiêu chuẩn tốt để đánh giá mức độ giỏi giang của một người, nhưng thực sự chúng chẳng hề tương ứng với một lĩnh vực cụ thể nào.
Thế mà chúng ta lại rất nhanh chóng thích nghi với những tiêu chuẩn đó. Tháng này nếu được tăng lương khủng, niềm hạnh phúc của bạn có thể kéo dài trong 1 tháng, 2 tháng, có thể 6 tháng. Nhưng khi bạn đã quen với việc đó, bạn sẽ muốn có một bước nhảy lớn khác. Bạn sẽ luôn muốn có những thứ đó để duy trì hạnh phúc. Nếu để ý hầu hết mọi người, bạn sẽ thấy nguồn hạnh phúc này không hề bền vững.
Pinsker: Vậy hướng tiếp cận còn lại là gì?
Raghunathan: Tôi đề xuất một hướng tiếp cận thay thế, đó là quan tâm hơn đến những thứ bạn thật sự giỏi và những điều bạn thích làm. Khi bạn không cần bận tâm so sánh bản thân với người khác, bạn sẽ hướng đến những điều bạn thực sự thích làm, những điều bạn thực sự giỏi, và nếu bạn đủ kiên trì, khả năng bạn thành công là rất cao. Lúc đó danh tiếng, quyền lực, và cả tiền bạc, mọi thứ sẽ đến với bạn như những sản phẩm phụ, chứ không phải bạn trực tiếp theo đuổi chúng để trở nên nổi trội hơn người khác.
Trở lại với ba điều mọi người cần sau khi các nhu cầu cơ bản được đáp ứng - sự giỏi giang, mối quan hệ và sự tự chủ - tôi sẽ thêm một điều nữa: chính là thái độ, cách nhìn cuộc sống. Cách nhìn đó thể hiện qua một trong hai xu hướng: một là tiếp cận theo tư duy khan hiếm, nếu mình chiến thắng thì người khác sẽ thất bại. Tư duy này trói buộc bạn vào các so sánh xã hội. Hướng còn lại là tiếp cận theo tư duy dư thừa, trong đó mọi người đều có không gian để phát triển.
Pinsker: Tôi rất quan tâm đến ranh giới giữa dư thừa và khan hiếm mà ông chỉ ra trong cuốn sách bởi vì điều đó khiến tôi nghĩ đến kinh tế học ngay lập tức. Trên nhiều phương diện, kinh tế học là ngành học nghiên cứu về những thứ khan hiếm. Ông có thể chia sẻ thêm về quá trình tư duy được vận dụng khi người ta nghĩ đến sự khan hiếm không?
Raghunathan: Trong cuốn sách, tôi không cố gắng thuyết phục rằng tư duy khan hiếm là nông cạn hay hoàn toàn vô ích. Nếu bạn đang ở giữa chiến trận, hay trong khu vực nghèo đói bủa vây, nếu bạn đang đấu tranh vì sự sống còn, hay tham gia một cuộc thi thể thao cạnh tranh như đấm bốc, tư duy khan hiếm đóng vai trò rất quan trọng.
Thế giới phát triển theo định hướng khan hiếm thông qua quá trình tiến hóa từ rất lâu rồi, con người chúng ta là hậu duệ của những người sống sót trong quá trình chọn lọc ấy. Khan hiếm thực phẩm, khan hiếm tài nguyên, khan hiếm đất đai màu mỡ, v.v. Vì thế chúng ta rất tự nhiên đi theo con đường tư duy khan hiếm. Nhưng tôi nghĩ thực ra chúng ta không phải ngày nào cũng chiến đấu vì sự sống còn theo đúng nghĩa đen.
Tôi nghĩ con người là động vật bậc cao, chúng ta cần nhận ra rằng một số tàn tích của quá trình tiến hóa có thể kìm hãm chúng ta lại. Nhiều nghiên cứu trong các lĩnh vực như quảng cáo, hay thiết kế phần mềm cho thấy nếu bạn không để bản thân suy nghĩ theo tư duy khan hiếm, nếu bạn không lo lắng về kết quả và bạn tận hưởng quá trình việc chứ không phải mục tiêu công việc, bạn sẽ làm việc hiệu quả hơn nhiều.


Pinsker: Bởi vì từ khi sinh ra chúng ta luôn suy nghĩ theo tư duy khan hiếm, tôi rất muốn biết chúng ta có thể làm gì để thay đổi lối tư duy của một người. Trong cuốn sách ông có nói đến thí nghiệm: những nhân viên mỗi ngày đều nhận được thư nhắc nhở việc đưa ra các quyết định để có được hạnh phúc tối đa thì hạnh phúc hơn những người không nhận được thư. Hạnh phúc chỉ đơn giản như thế thôi sao?
Raghunathan: Một mặt, rất tự nhiên, chúng ta đã chú ý nhiều hơn đến những điều tiêu cực. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng rất tự nhiên tìm kiếm hạnh phúc, khao khát được thành đạt và cố gắng hết sức để trở thành người giỏi nhất. Thực ra những gì chúng ta cần để hạnh phúc lại khá đơn giản: Chỉ cần làm những việc mà bạn cảm thấy ý nghĩa, và ngày ngày bạn có thể chìm đắm trong công việc đó.
Nếu quan sát, bạn sẽ thấy những đứa trẻ rất giỏi việc này. Chúng không bị xao nhãng bởi tất cả những tiêu chuẩn bề nổi kia. Chúng chỉ quan tâm đến những thứ thực sự khiến chúng vui. Trong cuốn sách, tôi có nói về việc mua cho con trai một chiếc ô tô đồ chơi nhỏ khi nó khoảng 3 tuổi, bởi vì nó thấy nhà hàng xóm có một chiếc ô tô như thế. Thằng bé chỉ chơi với chiếc ô tô được khoảng 3 ngày. Sau đó, nó muốn chơi với cái hộp đựng chiếc xe. Nó chẳng hề biết chiếc ô tô đắt hơn, giá trị hơn, hay có công nghệ tiên tiến hơn. Nó chơi với cái hộp chỉ bởi vì nhìn thấy nhân vật lợn con Hamilton trên tivi sống trong cái hộp. Thằng bé muốn bắt chước lợn con sống như thế.
Với nghiên cứu cụ thể đó, chúng tôi muốn mọi người chú ý đến những việc đơn giản khiến họ hạnh phúc. Ví dụ, thay vì ngồi xem TV, ông bố có thể cùng con trai chơi bóng chày. Dựa theo những nghiên cứu được thực hiện với các nhân viên của Fortune 500 và các sinh viên, những việc mọi người làm có thể khác nhau nhưng khi có lời nhắc, chúng tôi thấy họ thường đưa ra các quyết định nhỏ - thậm chí có thể gọi là vụn vặt tầm thường, nhưng chúng lại góp phần xây nên một cuộc sống hạnh phúc. Lời nhắc đơn giản mỗi ngày này chính là một dạng kiểm tra thực tế khiến mọi người chú ý đến mọi việc hơn.
Pinsker: Thông điệp về những yếu tố cần có để thành công trong kinh doanh mà mọi người nhận được trái ngược với lối tư duy này, ông nghĩ sao về việc này? Hay nói cách khác, ông có cho rằng việc leo lên chiếc thang nghề nghiệp không cần phải có tư duy dư thừa?
Động lực chèo lái hành vi
Raghunathan: Trong cuốn sách Động lực chèo lái hành vi (Drive), Daniel Pink có nói về việc những thứ trước đây từng được dùng để tạo động lực cho nhân viên - ông ấy gọi là phương pháp cây gậy và củ cà rốt- giờ đây đang được thay thế bằng “Động lực 2.0” bằng cách tìm ra niềm đam mê thực sự của mọi người. Một số công ty lớn nổi tiếng như Google và Whole Foods đang cố gắng áp dụng mô hình này.
Tôi cho rằng chúng ta đang dựa dẫm quá nhiều vào cách doanh nghiệp từng hoạt động trước đây. Trong một cuốn sách, Simon Sinek đã lí luận rằng doanh nghiệp và các quy tắc mà doanh nghiệp vận hành được tổ chức giống như cách quân đội từng hoạt động – theo cấp bậc và theo tư duy khan hiếm. Nhưng ông bảo, nếu để ý hơn đến các nhà lãnh đạo giỏi nhất trong quân đội, họ thường không như thế. Vì thế dựa trên cách mọi thứ từng hoạt động trong quá khứ, có một số ý kiến đang bị hiểu sai. Trên thực tế, một hướng tiếp cận thành công hơn trong kinh doanh và để đạt được thành công đang nổi lên hiện nay là tiếp cận theo tư duy dư thừa
Trong bức tranh tổng thể, các thông điệp đến từ giới kinh doanh hơi nhập nhằng. Tôi thấy các trường giảng dạy về kinh doanh thúc đẩy việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và tìm kiếm đam mê. Nhưng đồng thời nếu nhìn vào những người được mời tới để có bài phát biểu quan trọng hoặc việc chúng ta tập trung cải thiện vị trí trong bảng xếp hạng doanh nghiệp hàng tuần, những điều đó chỉ là yếu tố bề nổi. Chúng ta mời những người làm ra triệu đô, rồi chúng ta nhìn vào những sinh viên theo học thạc sĩ mới vào trường và nhìn vào tiền lương của họ lúc ra trường.
Pinsker: Ông có nhắc đến việc mọi người dễ dàng thích nghi với những thay đổi tích cực trong cuộc sống. Tôi biết một nghiên cứu chỉ ra rằng những người trúng xổ số ở thời điểm một năm sau đó không hề hạnh phúc hơn những người gần đây vừa mới bị thương nghiêm trọng. Điều đó khiến tôi ấn tượng. Nếu ông bảo tôi quay lại thời trung học, và tôi viết bài cho tạp chí, tôi chắc hẳn đã vui mừng khôn xiết. Còn bây giờ, tôi hạnh phúc theo nhiều cách khác nhau, nhưng tôi vẫn có những cảm giác bất ổn và lo lắng như cũ về tương lai. Tôi cho rằng nhiều người khác cũng phải trải qua cảm giác đó. Ông có thể cho mọi người biết làm thế nào để xua tan những suy nghĩ đó không?
Raghunathan: Tôi cho rằng hầu hết mọi người trên thế giới đều gặp phải tình huống éo le này. Bạn có những kì vọng, nếu bạn đạt được những điều đó, bạn sẽ hạnh phúc. Nhưng hóa ra điều đó lại không đúng. Nguyên nhân một phần là do sự thích ứng, nhưng một phần khác giống như bạn nhìn thấy ngọn núi trước mặt và bạn muốn trèo qua. Nhưng khi bạn đã trèo qua, bạn sẽ thấy rằng còn rất nhiều ngọn núi nữa cần phải trèo.
Về mặt này, khái niêm mà trong cuốn sách tôi gọi là “vô tư theo đuổi đam mê” (the dispassionate pursuit of passion) đã giúp tôi rất nhiều, và chung quy lại khái niệm này không đánh đồng hạnh phúc với những thành tựu đạt được. Không nên trói buộc hạnh phúc vào kết quả vì bản thân kết quả không có tác động tích cực hay tiêu cực rõ ràng đối với hạnh phúc. Có một số kết quả vô cùng khắc nghiệt như bị bênh giai đoạn cuối, hay là con cái qua đời, nhưng hãy để chúng sang một bên. Nếu bạn nghĩ đến việc chia tay người bạn gái thuở ấu thơ, hay việc bạn bị gãy tay và phải ở bệnh viện hai tháng, những lúc đó, bạn có thể cảm thấy, “Ôi, trời ơi, đúng là ngày tận thế mà. Mình sẽ chẳng thể nào bình thường được.”
Nhưng thực ra, chúng ta lại rất giỏi hồi phục. Không chỉ thế, những chuyện mà ta nghĩ cực kì tồi tệ lại đóng vai trò vô cùng quan trọng giúp chúng ta học hỏi và trưởng thành.
 Mọi người đều có dự cảm về những điều tốt đẹp hay những điều xấu sắp xảy ra. Khoa học chẳng có cách nào chứng minh dự cảm này đúng hơn dự cảm khác. Bạn tin vào điều nào bạn sẽ tìm thấy minh chứng cho điều đó. Nếu bạn tin cuộc sống nhân từ, bạn sẽ thấy nhiều minh chứng cho sự nhân từ đó và ngược lại. Điều này giống như viên thuốc trấn an lòng người. Giả sử tất cả những niềm tin này đều có giá trị như nhau, sao ta không tiếp nhận những niềm tin hữu ích trong cuộc sống?
Pinsker: Sau khi đọc sách và nói chuyện với ông, tôi hiểu rõ hơn, văn hóa nước Mỹ và thậm chí là chủ nghĩa tư bản nói chung, không mấy khuyến khích hướng tiếp cận dư thừa. Ông có biết nền văn hóa hay xã hội nào đã làm điều này không, hay thông thường một xã hội luôn gửi đi các thông điệp nhất định và mỗi người sẽ có lựa chọn riêng?
Raghunathan: Như tôi nói, có vẻ như chủ nghĩa tư bản nói chung không khuyến khích tư duy rộng rãi. Nhưng tôi nghĩ điều đó không hoàn toàn đúng. Chủ nghĩa tư bản có thể được chia theo hai tiêu chí quan trọng: Một là tự do luân chuyển con người, suy nghĩ và hàng hóa và tự do lựa chọn; Hai là sự phân bổ nguồn lực theo năng lực chứ không theo nhu cầu của mọi người.
Theo tôi, tiêu chí thứ nhất rất hay và tôi không thể bỏ qua. Và nếu tư tưởng đó đồng hành với sự phân bổ nguồn lực dựa theo năng lực thì tôi ủng hộ. Tôi không ủng hộ việc giới hạn quyền tự do suy nghĩ, tự do lựa chọn của mọi người, kể cả nếu như nó đi cùng với sự phân bổ nguồn lực theo nhu cầu của mọi người.
Tóm lại, bạn không thể ép mọi người chấp nhận lối tư duy dư thừa. Mỗi người phải tự mình lựa chọn, bằng cách tự mình khám phá và tự vấn lương tâm cũng như dựa vào khoa học. Lúc đó, một số người chủ động lựa chọn lối sống theo hướng xã hội chủ nghĩa hơn. Tôi nghĩ đó là cách hiệu quả nhất để chủ nghĩa tư bản tự mình thay đổi quan điểm và hướng đến lối tư duy dư thừa.
Phát Triển Tư Duy Của Bạn
Bạn có kiểu tư duy nào? Hãy trả lời những câu hỏi sau về trí thông minh. Đọc mỗi câu sau và quyết định liệu bạn đồng ý hay phản đối chúng.
1.                Trí thông minh của bạn là đặc điểm cơ bản mà bạn không thể thay đổi đáng kể.
2.                Bạn có thể học những thứ mới, nhưng bạn thực sự không thể thay đổi mức độ trí thông minh của bạn.
3.                Bất kể bạn thông minh tới đâu, bạn có thể luôn luôn thay đổi chút ít.
4.                Bạn có thể luôn luôn thay đổi phần lớn trí tuệ của mình.
Câu hỏi 1 và 2 là những câu hỏi tư duy bảo thủ. Câu hỏi 3 và 4 phản ánh tư duy cầu tiến. Lối tư duy nào bạn đồng ý hơn? Bạn có thể là ở nửa bên này, nửa bên kia, nhưng đa số mọi người đều chỉ theo một bên.
Bạn cũng có lòng tin với những khả năng khác của mình. Bạn có thể thay “thông minh” bằng “tài năng nghệ thuật”, “năng khiếu thể thao”, hoặc “năng lực kinh doanh”. Thử mà xem.
Không chỉ những khả năng mà cả những phẩm chất của bạn cũng vậy. Hãy xem những nhận định về nhân phẩm và tính cách sau và cân nhắc xem bạn đồng ý hay không đồng ý với câu nào nhất.
1.                Bạn thuộc một kiểu người nhất định, và khó có gì có thể thay đổi tính cách của bạn.
2.                Cho dù bạn thuộc kiểu người nào, bạn luôn luôn có thể thay đổi bản thân hoàn toàn.
3.                Bạn có thể hành động thế này thế khác, nhưng bản chất của bạn không dễ dàng thay đổi.
4.                Bạn có thể thay đổi luôn luôn những đặc tính cơ bản giúp phân định bạn thuộc kiểu người nào.
Câu hỏi 1 và 3 là câu hỏi tư duy bảo thủ. Câu hỏi 2 và 4 phản ánh tư duy cầu tiến. Bạn đồng ý với lối tư duy nào hơn?
Liệu nó có khác với trí thông minh? Có thể. Trí thông minh của bạn sẽ vào cuộc trong những trường hợp liên quan đến khả năng tâm thần.
Tư duy thiên về tính cách sẽ được sử dụng trong những trường hợp cần phẩm chất cá nhân – ví dụ, để xem bạn độc lập, dễ hợp tác, biết quan tâm hoặc có năng lực xã hội khác như thế nào. Tư duy bảo thủ khiến bạn quan tâm mình được đánh giá như thế nào, tư duy cầu tiến khiến bạn quan tâm đến phát triển bản thân.
Sau đây là vài cách khác để nhận định về hai kiểu tư duy
• Nghĩ về ai đó bạn biết lúc nào cũng suy nghĩ bảo thủ. Nghĩ về cách họ lúc nào cũng cố gắng chứng minh bản thân, rằng họ siêu nhạy cảm khi làm sai, mắc lỗi. Bạn đã từng băn khoăn tại sao họ lại như vậy? (Hay bạn lại như vậy?) Giờ thì bạn có thể hiểu lí do.
• Nghĩ về người có tư tưởng tiến bộ - người hiểu rằng những phẩm chất quan trọng có thể được nuôi dưỡng. Hãy nghĩ về cách họ đối mặt với khó khăn. Nghĩ về những việc họ làm để khiến mình tốt hơn. Có điều gì bạn muốn thay đổi hay cách nào giúp bạn phát triển bản thân?
• Vâng, giờ hãy tưởng tượng bạn quyết tâm muốn học một ngoại ngữ mới, bạn đăng kí một lớp học. Bạn tham gia vài buổi trong khóa học, giảng viên gọi bạn lên trước lớp và bắt đầu hỏi bạn hết câu này đến câu khác.
Hãy thử áp dụng tư duy bảo thủ. Năng lực của bạn đang bị thử thách. Bạn có cảm nhận được ánh mắt mọi người nhìn mình không? Bạn có thấy nét mặt giảng viên đánh giá bạn không? Hãy cảm nhận áp lực, cảm nhận cái tôi nhảy dựng lên. Bạn còn suy nghĩ và cảm nhận gì khác không?
Giờ hãy áp dụng tư duy cầu tiến. Bạn chỉ là tay mơ – đó là lí do vì sao bạn ở đây. Bạn ở đây để học. Giảng viên là người giúp bạn học tốt. Hãy cảm nhận áp lực biến mất, cảm nhận tâm trí thoải mái.

Thông điệp quan trọng ở đây là: Bạn có thể thay đổi cách tư duy của mình.
(Nguồn: Sưu tầm)

Nuôi dưỡng tư duy cầu tiến

Khi còn là nhà nghiên cứu trẻ, chỉ vừa mới bước vào nghề, một chuyện xảy ra đã thay đổi cuộc đời tôi. Tôi bị ám ảnh với việc tìm hiểu cách mọi người đối mặt với những thất bại, và tôi quyết định nghiên cứu bằng cách quan sát các học trò vật lộn với những bài tập khó. Vì vậy tôi đưa từng đứa trẻ một vào trong lớp ở trường của chúng, khiến chúng thoải mái và cho chúng một loạt các câu đố khó để giải.
Câu số 1 tương đối dễ, nhưng các câu tiếp sẽ khó dần. Trong lúc các em cau có, khó chịu và cặm cụi giải toán, tôi quan sát những chiến lược giải bài của chúng và thăm dò cách chúng suy nghĩ và cảm nhận. Tôi kì vọng sẽ có sự khác biệt giữa các em trong cách chúng đương đầu với khó khăn, nhưng rồi tôi nhận ra một điều mà mình chưa bao giờ ngờ tới.
Phải giải những bài tập khó, một cậu bé 10 tuổi nhấc ghế của mình lên, xoa hai tay vào nhau, cắn môi, và thét lên, "Con yêu thử thách!" Một cậu bé khác, đang làm bài toát mồ hôi hột, nhìn lên với nét mặt hài lòng và nói với giọng đầy quyền lực, "Cô biết đấy, con đang hi vọng có nhiều gợi ý hơn!"
(Ảnh minh họa)

Chúng làm sao vậy? Tôi tự hỏi. Tôi luôn nghĩ rằng hoặc là chúng ta đối mặt với thất bại hoặc là ta bỏ cuộc. Tôi chưa từng nghĩ có ai đó lại yêu thất bại cả. Có phải chúng là người ngoài hành tinh hay là chúng đã khám phá ra chân lý gì đó?
Ai ai cũng có người mình gọi là sư phụ, những người chỉ đường cho ta trong những giây phút quan trọng của cuộc đời. Lũ trẻ này là sư phụ của tôi. Rõ ràng chúng biết điều gì đấy mà tôi không biết và tôi quyết tâm phải tìm ra - để hiểu kiểu tư duy nào có thể biến thất bại thành một món quà.
Bọn trẻ đã biết điều gì? Chúng biết rằng những phẩm chất của con người như là các kĩ năng trí tuệ, có thể được nuôi dưỡng nhờ nỗ lực. Và đó là điều chúng đang làm - cố gắng thông minh hơn. Thất bại không khiến chúng nản lòng, chúng còn không thèm nghĩ rằng mình đang thất bại. Chúng nghĩ rằng mình đang học tập.
Tôi, mặt khác, lại nghĩ rằng các đặc điểm này được phong ấn từ khi mình sinh ra. Hoặc là bạn giỏi hoặc là đần, và thất bại nhiều chứng tỏ bạn thuộc vế sau. Đơn giản thế thôi. Nếu bạn có thể tóm được thành công và né được thất bại (bằng mọi giá), bạn có thể vẫn luôn là người thông minh. Sự đấu tranh, lầm lỗi, hay kiên trì không xuất hiện ở những con người xuất chúng.
Liệu các phẩm chất của ta là thứ có thể nuôi dưỡng hay là "của trời cho" là một vấn đề ngàn xưa. Bạn suy nghĩ ra sao về câu hỏi này mới là vấn đề mới: Đâu là những tác động của lối tư duy cho rằng trí thông minh hay tính cách của bạn là thứ có thể phát triển, trái với lối tư duy cho rằng đây là những đặc tính cố hữu, bén rễ sâu? Hãy cùng xem xét cuộc tranh cãi lâu đời, khốc liệt về bản tính con người và sau đó trở lại câu hỏi về ý nghĩa của hai niềm tin này đối với bạn.
TẠI SAO MỌI NGƯỜI KHÁC NHAU?
Từ thời hồng hoang, con người đã suy nghĩ khác nhau, hành xử khác nhau, và đạt được những thành tựu khác nhau. Thế nên câu hỏi dĩ nhiên phải đặt ra là: Tại sao tại sao, tại sao bạn kia lại thông minh hơn, tốt bụng hơn, và liệu có thứ gì đó bên trong khiến họ mãi khác người như vậy.
Các chuyên gia đứng về cả hai phía. Một số tuyên bố rằng chúng có nguồn gốc từ khác biệt sinh lý, khó có thể sửa đổi. Trong hàng trăm năm, những khác biệt cơ thể này đi từ những nốt lồi trên hộp sọ, kích thước và hình dạng của hộp sọ, và cho đến ngày nay là gene.
Một số khác chỉ ra những sai khác lớn lao trong hoàn cảnh xuất thân, trải nghiệm, quá trình đào tạo, hay phương pháp học mới là nguyên nhân. Bạn có thể ngạc nhiên khi biết rằng một trong những người ủng hộ nhiệt liệt của quan điểm này là Alfred Binet, người sáng tạo ra bài kiểm tra IQ. Chẳng phải bài thi IQ sinh ra nhằm tóm gọn trí thông minh không thể thay đổi của lũ trẻ trong vài con số hay sao? Trên thực tế, không. Binet, một anh chàng người Pháp làm việc tại Paris trong những năm đầu thế kỉ 20, thiết kế bài kiểm tra này để xác định những người trẻ bị tụt hậu trong các trường học công ở Pháp, để các chương trình giáo dục mới có thể thiết kế lại để giúp đỡ chúng. Không phủ nhận những khác biệt trong trí thông minh của trẻ, ông tin rằng giáo dục và rèn luyện có thể mang lại những thay đổi trí tuệ căn bản. Đây là một đoạn trích từ một trong các cuốn sách lớn của ông, Những ý tưởng hiện đại về trẻ em, trong đó ông tóm tắt công trình của mình khi nghiên cứu hàng trăm trẻ có chứng khó học:
Rất nhiều các triết gia hiện đại...khẳng định rằng trí thông minh của một cá nhân là một đặc điểm cố định, không thể phát triển. Chúng ta phải biểu tình và phản ứng lại sự bi quan dã man này... Nếu có luyện tập, đào tạo, và quan trọng nhất, phương pháp, ta có thể tăng cường sự tập trung, trí nhớ, phán đoán và theo nghĩa đen, trở nên thông minh hơn trước đây.
Ai nói đúng? Ngày nay hầu hết các chuyên gia đồng ý rằng đây không phải là câu trả lời có-hoặc-không. Vấn đề không phải là tự nhiên hay nuôi dưỡng, gene hay môi trường. Từ trong bào thai, sẽ luôn có sự tác động qua lại giữa hai thứ. Trên thực tế, như Gilbert Gottlieb, một nhà khoa học thần kinh nổi tiếng, chỉ ra, không chỉ gene và môi trường cùng hợp tác khi ta lớn, mà các gene còn đòi hỏi đầu vào từ môi trường để có thể hoạt động chính xác.
Cùng lúc đó, các nhà khoa học đang học được rằng con người có nhiều khả năng hơn mình tưởng để học tập và phát triển bộ não suốt đời. Tất nhiên, mỗi người sẽ được trời phú cho những ưu thế gene khác nhau. Họ có thể bắt đầu với tính cách, khả năng khác nhau, nhưng rõ ràng là trải nghiệm, huấn luyện và nỗ lực cá nhân có thể lo phần còn lại. Robert Sternberg, bậc thầy hiện đại về trí thông minh, viết rằng yếu tố chính quyết định mọi người có thể trở thành chuyên gia hay không "không phải nằm ở khả năng trước đó của họ, mà nằm ở sự rèn luyện có mục đích." Hay như Binet nhận thấy, không phải người nào sinh ra thông minh nhất rồi cũng là người thông minh nhất.
TẤT CẢ ĐIỀU NÀY CÓ Ý NGHĨA GÌ VỚI BẠN? HAI LOẠI TÂM TRÍ
Nghe các chuyên gia chém về các vấn đề khoa học là một chuyện. Hiểu cách áp dụng hai quan điểm này với bạn thế nào là một chuyện khác. Trong 20 năm trời, nghiên cứu của tôi đã chỉ ra rằng quan điểm bạn chọn có thể ảnh hưởng sâu sắc đến cách bạn sống cuộc đời này. Nó có thể quyết định bạn có thể trở thành người như mình mong muốn không và bạn có thể đạt được những gì mình coi trọng không. Điều này xảy ra như thế nào? Làm sao một niềm tin đơn giản lại có sức mạnh biến đổi tâm lý và cuộc đời bạn được?
Khi tỉn rằng mình không thể thay đổi những phẩm chất của mình - tư duy bảo thủ - bạn sẽ tạo ra một nhu cầu phải chứng tỏ bản thân liên tục. Nếu trí tuệ, tính cách, đạo đức của bạn chỉ ở một ngưỡng nhất định - thì tốt nhất ngưỡng đó phải khá cao. Thật khó để chịu đựng được cảm giác thiếu hụt những đặc tính căn bản này trong mình.
Một vài người đã được đào tạo tư duy này từ khi còn nhỏ. Thậm chí khi là một đứa bé, tôi phải cố gắng thông minh, nhưng tư duy bảo thủ thực sự được đóng dấu bởi cô giáo lớp 6 tên là Wilson của tôi. Không giống như Alfred Binet, cô tin rằng điểm IQ sẽ nói lên cả cuộc đời bạn. Chúng tôi được xếp chỗ ngồi trong lớp theo thứ tự IQ, và chỉ những học sinh có IQ cao nhất mới được mang cờ, giặt giẻ lau bảng, hay đưa giấy tờ cho hiệu trưởng. Ngoài những khó chịu hàng ngày cô gây ra khi phán xét các học sinh, cô đang tạo ra một lối tư duy mà mọi học sinh trong lớp chỉ có một mục tiêu phải đạt được duy nhất - hãy chứng tỏ mình thông minh, đừng có tỏ ra ngu ngốc. Thế thì ai còn quan tâm hay thích thú việc học nếu mỗi lần làm bài kiểm tra hay lên bảng, bạn sẽ đánh mất hết danh dự của mình.
Tôi đã nhìn thấy rất nhiều người với chỉ một mục tiêu chứng tỏ bản thân kiểu này - trong lớp học, trong sự nghiệp và trong mối quan hệ của họ. Mỗi một tình huống lại đòi hỏi họ phải khẳng định sự thông minh, cá tính hay nhân cách của mình. Mỗi một tình huống đều bị đánh giá: Liệu mình sẽ thành công hay thất bại? Liệu mình trông có thông minh hay ngu ngốc? Liệu mình sẽ được nhận hay bị loại? Liệu mình có cảm thấy như một kẻ chiến thắng hay thua cuộc?
Nhưng chẳng phải xã hội của chúng ta đề cao trí tuệ, cá tính, và nhân cách hay sao? Mong muốn có được chúng không phải quá bình thường sao? Đúng, nhưng...
Có một lối tư duy khác mà bạn không coi những phẩm chất này là 'trời sinh voi, trời sinh cỏ', không phải lúc nào cũng cố gắng thuyết phục mình hay người đời rằng mình tài giỏi. Theo lối suy nghĩ này, bạn mới đang ở những nấc thang đầu của quá trình phát triển. Tư duy cầu tiến được dựa trên niềm tin rằng những phẩm chất cơ bản của bạn là những thứ bạn có thể nuôi dưỡng nhờ nỗ lực. Mặc dù mỗi cá nhân đều có xuất phát điểm khác nhau - từ tài năng, năng lực, mối quan tâm, tính khí - nhưng ai cũng có thể thay đổi và phát triển thông qua rèn luyện và trải nghiệm.
Có phải những người với tư duy này tin rằng ai cũng có thể làm bất cứ điều gì, rằng ai có động lực hoặc giáo dục chuẩn mực cũng có thể trở thành Einstein hay Beethoven? Không, nhưng họ tin rằng tiềm năng thực sự của một con người vẫn còn chưa được khai phá; rằng ta không thể thấy trước những gì một cá nhân có thể đạt được nếu họ có đam mê, chăm chỉ, và được đào tạo đúng đắn.
Bạn có biết rằng Darwin và Tolstoy từng được coi là những đứa trẻ bình thường? Rằng Ben Hogan, môt trong những tay gôn vĩ đại nhất mọi thời đại, khi còn nhỏ là một đứa vô cùng vụng về? Rằng nhiếp ảnh gia Cindy Sherman, người nằm trong mọi danh sách những nghệ sĩ quan trọng nhất của thế kỉ 20, đã trượt lớp học chụp ảnh đầu tiên của cô? Rằng Geraldine Page, một trong những nghệ sĩ vĩ đại nhất của ta từng được khuyên hãy từ bỏ vì bà không có tài?
Niềm tin cho rằng những phẩm chất quý giá này có thể phát triển sẽ tạo ra niềm đam mê học tập. Tại sao lại tốn thời gian chứng tỏ bản thân mình vĩ đại thế nào, khi bạn có thể tiến bộ mỗi ngày? Tại sao phải che dấu những khiếm khuyết thay vì vượt qua chúng? Tại sao lại phải tìm những đứa bạn hay người yêu chỉ để làm tăng sự tự tin thay vì những người dám thách thức bạn lăn xả? Đam mê phá bỏ giới hạn của bản thân và quyết đi tới cùng, thậm chí (và đặc biệt) khi mọi chuyện diễn ra không suôi sẻ, là dấu hiệu đặc trưng của tư duy cầu tiến. Đây là phong cách suy nghĩ sẽ giúp mọi người vượt qua những lúc bi đát nhất của cuộc đời mình.
MỘT GÓC NHÌN TỪ HAI KIỂU TƯ DUY
Để bạn hiểu hơn về cách hai kiểu tư duy hoạt động, hãy tưởng tượng, sống động nhất có thể, rằng bạn đang có một ngày rất rất tệ:
Ngày đó, bạn đi học một môn tủ rất quan trọng với bạn. Giảng viên trả bài kiểm tra giữa kì cho cả lớp. Bạn được điểm 4. Bạn cực kì thất vọng. Buổi tối trên đường trở về nhà hôm đó, bạn lại bị công an giao thông bắt. Cực kì buồn chán, bạn gọi cho người bạn thân mất của mình để giãi bày, nhưng cũng bị làm lơ.
Bạn sẽ nghĩ gì? Bạn cảm thấy ra sao? Bạn sẽ làm gì?
Khi tôi hỏi mọi người có tư duy bảo thủ, đây là điều họ sẽ nói: "Tôi cảm thấy như bị ruồng bỏ." "Tớ là một thất bại thảm hại." "Tớ là đứa ngu ngốc." "Tớ là kẻ loser". "Tớ chẳng có giá trị gì - mọi người đều giỏi hơn tớ." "Tớ là đứa bỏ đi." Nói cách khác, họ coi những chuyện vừa xảy ra như một thước đo năng lực và giá trị trực tiếp của mình.
Đây là những gì họ nghĩ về cuộc đời mình. "Cuộc đời tớ thật đáng thương." "Tớ sống như chết." "Ai đó ở tầng trên không ưa tớ." "Thế giới này ruồng bỏ tớ." "Ai đó muốn hủy hoại cuộc đời tớ." "Không ai yêu tớ cả, mọi người đều căm ghét tớ ." "Cuộc đời thật bất công và mọi nỗ lực của tớ đều như muối bỏ bể." "Đời thật nhạt. Tớ thật ngu. Chẳng có gì tốt đẹp sẽ đến với tôi hết." "Tớ là đứa bất hạnh nhất hành tinh này."
Xin lỗi đã ngắt lời, nhưng có thực sự là trời đang sập hay chỉ là vấn đề về điểm số, bị pikachu bắt, hay một cú điện thoại dở hơi?
Có phải đây chỉ là những người thiếu tự tin? Hay luôn bi quan? Không, khi họ không gặp thất bại, họ cảm thấy lạc quan và yêu đời - và tỏa sáng, cuốn hút - giống hệt như những người có tư duy cầu tiến.
Vậy họ sẽ đối mặt với vấn đề ra sao? "Tớ sẽ chẳng buồn bỏ thời gian và công sức để hoàn thành tốt thứ gì nữa." "Đếch làm gì sất." "Ở nhà ngủ." "Đi uống rượu." "Ăn." "Quát bất cứ đứa nào nếu tớ có cơ hội." "Ăn kẹo sô cô la." "Nghe nhạc và bĩu môi." "Chui vào tủ quần áo của tớ và ngồi đó." "Đánh nhau với đứa nào đấy." "Khóc." "Đập thứ gì đó." "Còn gì để tớ giải sầu nữa không?"
Bạn biết đấy, khi tôi viết tình huống này, tôi cố tình để điểm 4, chứ không phải 2.  Đây là bài giữa kì chứ không phải bài cuối kì. Bị công an bắt, chứ đâu phải gặp tai nạn giao thông. Đứa bạn thân chỉ không chú tâm, chứ đâu phải chối bỏ bạn. Không phải tận thế đang đến. Vậy mà từ những nguyên liệu này, tâm trí bảo thủ đã tạo ra cảm giác thất bại hoàn toàn và tê liệt
Khi tôi đưa tình huống tương tự này cho những người có tư duy cầu tiến, đây là những gì họ nói. Họ nghĩ rằng:
"Tớ cần cố gắng hơn trong lớp, cẩn thận hơn khi đi xe, và hỏi xem liệu bạn mình cũng đang có một ngày tồi tệ."
"Điểm 4 có nghĩa là tớ phải chăm chỉ học bài hơn, nhưng tớ còn cả nửa kì còn lại để gỡ điểm."
Có rất nhiều câu nói kiểu này, nhưng tôi nghĩ là bạn hiểu vấn đề rồi. Giờ, họ sẽ đối mặt với thử thách ra sao? Đáp án là đối mặt trực tiếp.
"Tớ bắt đầu nghĩ về việc học hành chăm chỉ hơn (hoặc học theo phong cách khác) cho bài kiểm tra tiếp theo trong lớp, đằng nào cũng mất tiền công an rồi, và tớ sẽ giải quyết chuyện với người bạn thân nhất của mình trong lần gặp mặt tới."
"Ôn bài chăm chỉ cho bài kiểm tra tiếp theo, nói chuyện với giáo viên, cẩn thận khi lái xe và tìm hiểu xem bạn mình có vấn đề gì."
Dù bạn có tư duy bảo tiến hay bảo thủ thì bạn vẫn sẽ bức bối thôi. Đời này ai không buồn chứ? Những chuyện như bị điểm xấu hay bị người bạn thân hay người yêu bỏ rơi - chúng chẳng có gì vui vẻ cả. Tuy nhiên những người có tư duy cầu tiến không tự chụp mũ mình và buông tay. Kể cả khi họ đang sầu đời, họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro, đối mặt với những thách thức và tiếp tục cố gắng.
VẬY, CÓ GÌ MỚI KHÔNG?
Đây có phải một ý tưởng chưa từng có không? Người đời đã nói nhan nhản về tầm quan trọng của rủi ro và sức mạnh của sự kiên trì, như là "Liều thì ăn nhiều" và "Nếu ban đầu bạn không thành công, hãy thử lại, thử tiếp" hay "Rome không được xây trong một ngày." Điều ngạc nhiên là những người có tư duy bảo thủ sẽ không đồng ý. Đối với họ, "Trèo cao thì ngã đau." "Nếu ban đầu bạn không thành công, có thể bạn không có khả năng đó." "Nếu Rome không được xây trong một ngày, có lẽ đừng xây nữa." Hay nói cách khác, rủi ro và nỗ lực là hai thứ có thể bộc lộ sự bất tài của bạn và chỉ ra rằng bạn không đủ khả năng để làm việc này. Trên thực tế, thật ngạc nhiên khi thấy mức độ những người có tư duy bảo thủ không tin vào sự nỗ lực.
Điểm mới nữa là quan điểm của mọi người về rủi ro và nỗ lực nảy sinh từ chính lối tư duy của họ. Không đơn giản chỉ là một số người ngẫu nhiên nhận ra giá trị của việc thách thức bản thân và sự quan trọng của tính kiên trì. Nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy rằng lối suy nghĩ này bắt nguồn trực tiếp từ tư duy cầu tiến. Khi chúng tôi dạy mọi người cách tư duy cầu tiến, tập trung vào sự phát triển, góc nhìn của họ về sự thất bại và cố gắng cũng thay đổi theo. Tương tự, vấn đề không phải là ngẫu nhiên một số người lại ghét thử thách và cố gắng. Khi ta (trong một khoảng thời gian) đặt mọi người vào lối tư duy bảo thủ, tập trung vào những phẩm chất cố định, họ nhanh chóng sợ hãi chướng ngại và đánh giá thấp nỗ lực.
Ta thường gặp những cuốn sách với tựa đề kiểu Mười bí mật của những người thành công nhất thế giới chiếm hết các giá sách, và những cuốn này có thể đưa ra một vài lời khuyên hữu ích. Nhưng chúng thường là một danh sách những bài học rời rạc, như "Hãy liều lĩnh hơn!" hay "Hãy tin vào bản thân mình!" Mặc dù đọc xong bạn có thể ngưỡng mộ những vĩ nhân này, bạn không bao giờ thấy rõ các bài học kết nối với nhau như thế nào hoặc các bước để mình đạt được thành tích tương tự. Vì vậy, bạn có thể đầy nhiệt huyết trong vài ngày, nhưng về căn bản thì bí mật thành công của họ vẫn được giữ kín.
Nhưng nếu bạn bắt đầu hiểu tư duy bảo thủ và cấu tiến, bạn sẽ hiểu chính xác tính logic của chúng - làm sao một niềm tin rằng những phẩm chất của bạn được trời cho dẫn tới một loạt những suy nghĩ và hành động kiểu này, và làm sao một niềm tin rằng những phẩm chất của bạn có thể được phát triển lại có dẫn tới một loạt những suy nghĩ và hành động hoàn toàn khác. Đó là thứ mà các nhà tâm lý học như chúng tôi gọ là trải nghiệm Aha!. Tôi không chỉ chứng kiến cảnh này khi dạy mọi người về lối tư duy mới, mà tôi đã nhận được rất nhiều các bức thư từ những độc giả đã học công trình của tôi...
TỰ KHAI SÁNG: AI CÓ QUAN ĐIỂM CHÍNH XÁC VỀ TÀI NĂNG VÀ GIỚI HẠN CỦA HỌ.
Có thể, những người có tư duy cầu tiến không nghĩ mình là Einstein hay Beethoven, nhưng chẳng phải họ có khả năng tâng bốc bản thân qua và cố gắng làm những điều bất khả thi? Trên thực tế, các nghiên cứu cho thấy con người đánh giá năng lực của mình cực kì tệ. Gần đây, chúng tôi có làm thí nghiệm để xem ai dễ chuẩn đoán sai hơn? Đúng là mọi người đều đoán sai, nhưng chính những người có tư duy bảo thủ lại là nhóm chiếm phần sai nhiều nhất. Những người có tư duy cầu tiến, ngạc nhiên thay, lại đoán vô cùng chuẩn xác.
Khi nghĩ sâu hơn về hiện tượng này, bạn sẽ thấy nó hợp lý. Nếu, giống như những người có tư duy cầu tiến, bạn tin rằng mình có thể phát triển bản thân, thì bạn sẽ cởi mớ trước các thông tin chính xác xác định năng lực hiện tại của mình. Hơn nữa, nếu bạn muốn học để giỏi hơn, bạn lại càng cần sự phản ánh chính xác để có thể học hiệu quả. Tuy nhiên, nếu có tin tốt hay xấu về những phẩm chất quý giá của bạn - như với những người có tư duy bảo thủ - chắc chắc thông tin đó sẽ bị biến đổi. Một số kết quả sẽ bị phóng đại, một số thì được biện hộ, và bạn sẽ chẳng bao giờ biết được mình là ai.
Howard Gardner, trong cuốn sách Những trí tuệ siêu phàm (Extraordinary Minds), kết luận rằng những kẻ xuất chúng có "tài năng đặc biệt khi xác định điểm mạnh và điểm yếu cảu mình." Thú vị là những người có tư duy cầu tiến dường như cũng có năng lực này.
(Nguồn: http://tramdoc.vn/)


Wednesday, November 30, 2016

A only way to success - Work



Speakers:
Jack Ma
Steve Harvey
Pharrell Williams
Tyler Perry
Cristiano Ronaldo
Howard Schultz
Gary Vaynerchuk
Jared Leto
Robin Sharma
Kevin Plank
Guy Kawasaky
1)This video has no negative impact on the original works (It would actually be positive for them)
2)This video is also for teaching purposes.
3)It is not transformative in nature.
4)I only used bits and pieces of videos to get the point across where necessary.

Tuesday, November 29, 2016

Triết học trung hoa cổ đại và cuộc sống hiện đại

Khổng Tử, Mạnh Tử, Trang Tử...có thể giúp bạn vượt qua những phiền não của thế kỉ 21 ra sao?
Mối quan hệ giữa người với người bị thử thách bởi cái tôi ngất trời và tính tự cao tự đại ngày một tăng ngùn ngụt - mô tả này nghe có vẻ giống nước Mĩ của thế kỉ 21. Nó chỉ ra rằng, sẽ khó tránh khỏi bất đồng trong việc tìm ra cách tốt nhất để con người có thể sống hòa hợp cùng nhau. Thực tế thì, xã hội mà Michael Puett, giáo sư 48 tuổi dạy lịch sử Trung Quốc ở Harvard miêu tả trước hơn 700 sinh viên đang hồi hộp lắng nghe chính là Trung Hoa Cổ Đại của 2500 năm về trước.
Khóa học của Puett về đạo đức và chính trị Trung Hoa cổ điển trở thành một trong ba khóa học hàng đầu tại Harvard về số lượng sinh viên đăng ký. Ở lần thứ hai Puett mở khóa học vào năm 2007, đã có rất nhiều sinh viên tập trung tại phòng đăng ký đến nỗi mà nhiều người phải ngồi chờ tại cầu thang và dạt ra cả hành lang. Harvard đã phải di chuyển lớp học đến hội trường Sanders, nơi rộng lớn nhất trong khuôn viên trường. Tại sao rất nhiều sinh viên dành cả một học kỳ để chìm đắm trong sự sâu sắc của triết học Trung Hoa được đưa ra luận bàn bởi những học giả sống từ hàng ngàn năm trước? 
(Ảnh: Khổng tử)
Một lí do là bởi khóa học đã đáp ứng được một trong những đòi hỏi cốt lõi đầy thử thách của Harvard là sự lý luận về đạo đức. Lớp học của Puett đã diễn tả điều đó rất rõ ràng. Sinh viên cũng bị ấn tượng bởi lời hứa “có một không hai” của vị giáo sư này: “Khóa học đó sẽ thay đổi cả cuộc đời bạn.”
Các sinh viên của ông ấy nói rằng điều đó là sự thật: Puett đã sử dụng triết học Trung Hoa như một cách truyền tải cho sinh viên các ý tưởng cụ thể, phản trực giác, thậm chí mang tính cách mạng để chỉ ra cho họ cách sống một cuộc sống tốt đẹp hơn. Elizabeth Malkin, một sinh viên theo học năm ngoái cho biết: “Lớp học đã hoàn toàn thay đổi quan điểm của tôi về bản thân, về các các bạn đồng trang lứa và cả cách tôi nhìn nhận thế giới.”
Puett đã làm mới những vấn đề mà các học giả phương Đông đã vật lộn từ nhiều thế kỉ trước. Ông yêu cầu sinh viên của mình đọc sâu hơn các đoạn trích nguyên gốc như Luận Ngữ của Khổng Tử, Mạnh Tử và Đạo Đức Kinh của Lão Tử rồi chủ động áp dụng kiến thức đó vào cuộc sống hằng ngày. Bải giảng của ông ấy áp dụng trong hoàn cảnh cuộc sống Mĩ hiện đại để giúp các học trò trong lứa tuổi đôi mươi - những người đang đấu tranh để tìm kiếm vị trí của mình trên thế giới - xác định được cách trở thành người tốt; cách tạo ra một xã hội tốt đẹp hay để có một cuộc sống thịnh vượng.
Puett chia sẻ, so với cách đây 20 năm khi mới bắt đầu vào nghề, ông đang thấy ngày càng nhiều sinh viên “bị thúc phải chọn hướng đi riêng để theo đuổi mục tiêu nghề nghiệp cụ thể”. Một báo cáo gần đây chỉ ra số lượng sinh viên Harvard lựa chọn học chuyên ngành nhân văn tuột dốc trầm trọng trong thập kỉ vừa qua. Tài chính vẫn là ngành phổ hiến nhất đối với sinh viên Harvard. Puett thấy những sinh viên xác định rất rõ mục tiêu, kế hoạch nghề nghiệp trên thực tế, từ đó vạch sẵn mọi khóa học, thậm chí cả hoạt động ngoại khóa.
Trái với đó, ông cho rằng, luôn tính toán cẩn thận mọi việc theo kế hoạch là cách sai lầm khi phải đưa ra bất kỳ quyết định quan trọng nào trong đời. Các nhà triết học Trung Hoa xưa thường nói, chiến lược này sẽ ngăn bạn trở nên cởi mở trước những thay đổi có thể không đi theo kế hoạch. Sinh viên sống theo kế hoạch “dễ bỏ qua những điều có ý nghĩa mỗi ngày, vốn có thể tiếp thêm sinh lực, truyền cảm hứng và đem lại cuộc sống trọn vẹn, thú vị hơn”. Mục tiêu cho khóa học này của Puett là cung cấp cho các bạn sinh viên một cách tiếp cận mới đối với mọi quyết định trong cuộc sống, từ các mối quan hệ đến sự nghiệp.
Ông ấy khuyên rằng: Những hành động nhỏ nhất để lại hệ quả sâu sắc nhất. Khổng Tử, Mạnh Tử và các nhà thông thái Trung Hoa khác đã dạy môn đệ rằng những hoạt động trần thế nhất có thể tạo nên một tác động lan tỏa. Puet hối thúc các sinh viên trở nên có ý thức hơn về bản thân, và để ý tới cách mà kể cả những cử chỉ thường ngày - như giữ cửa mở cho ai đó, mỉm cười với người bán hàng ở cửa hàng tạp hóa - có thể ảnh hưởng đến cả một ngày của chúng ta như thế nào, thông qua tác động của chúng lên tâm trạng của ta.
Cảm giác hạnh phúc sau khi chạy bộ, một cuộc trò chuyện đầy cảm hứng với một người bạn tốt, hay cơn giận chớp nhoáng thoáng qua khi ai đó chen lấn trước bạn để tới lượt trước - tất cả chúng ảnh hưởng đến cuộc sống lớn lao của chúng ta như thế nào? Thực ra, chúng ảnh hưởng toàn bộ. Từ một quan điểm triết học Trung Hoa, những trải nghiệm bé nhỏ mỗi ngày mang đến cho chúng ta vô vàn cơ hội để thấu hiểu bản thân mình.
Khi chúng ta lưu ý và hiểu được điều khiến chúng ta khó chịu, hiểu vì sao ta lại phản ứng, hiểu được cảm giác hân hoan hay giận dữ; chúng ta dần dần hình thành một ý niệm rõ ràng hơn về bản thân, từ đó giúp ta đối mặt với các tình huống mới tốt hơn. 
 Mạnh Tử, nhà nho sống ở thế kỉ thứ IV TCN dạy rằng: Nếu bạn trau dồi bản chất con người qua những cách nhỏ nhặt này, bạn có thể trở thành một con người phi thường với tầm ảnh hưởng đáng kinh ngạc, thay đổi cả cuộc sống của mình cũng như những người xung quanh, cho đến khi cuối cùng “bạn có thể thu phục cả thế giới trong lòng bàn tay. 
Các quyết định phải được đưa ra bởi trái tim. Người Mĩ có xu hướng tin rằng con người là những sinh vật lý tính chuyên đưa ra những quyết định có tính logic bằng cách sử dụng khối óc của mình. Tuy vậy, ở Trung Quốc, “lí trí” và “con tim” là như nhau. Puett chỉ ra rằng giữa khối óc và con tim có mối liên hệ không thể lí giải được và cái này không thể tồn tại được nếu thiếu vắng cái kia. Bất cứ khi nào chúng ta phải đưa ra quyết định, từ trần tục cho đến uyên thâm (ăn gì cho bữa tối; chọn khóa học nào cho kì tới; con đường nghề nghiệp theo đuổi; quyết định kết hôn với ai), chúng ta sẽ lựa chọn tốt hơn khi thấu hiểu bản thân mình, biết cách kết hợp lí trí và trái tim, để những mặt lý tính và cảm xúc hòa làm một.
Trang Tử, một triết gia Đạo giáo khuyên rằng: Chúng ta cần tu luyện bản thân để trở nên “linh hoạt” trước cuộc sống hằng ngày hơn là đóng cửa bản thân mình trước những thứ chúng ta nghĩ như phần quyết định từ lí trí. 
Giống như cách một người tập luyện dương cầm để có thể chơi những bản nhạc thật tự nhiên, chúng ta tu dưỡng bản thân mình hàng ngày để trở nên cởi mở với những trải nghiệm cũng như đối mặt với những vấn đề muôn màu muôn vẻ của cuộc sống. Khi đó, cuối cùng câu trả lời và những quyết định đúng đắn sẽ đến một cách tự nhiên từ trái tim và lí trí không hề có sự can dự của âu lo.
Các nghiên cứu gần đây về khoa học thần kinh xác nhận rằng các nhà triết học Trung Quốc đã đúng: Những thí nghiệm quét não tiết lộ nhận thức phi lí trí của ta về cảm xúc và những sự việc xung quanh mới là thứ thúc đẩy ta hành động theo hướng mà ta cứ nghĩ là lí trí. Theo Marianne LaFrance, một giáo sư tâm lý học tại Yale, nếu ta thấy một gương mặt hạnh phúc chỉ trong khoảng một phần tư giây, đó đã quá đủ để nảy nở một cao hứng nho nhỏ trong cảm xúc. Ở một nghiên cứu khác, những người tham gia chỉ được thấy thoáng qua một nụ cười, nhanh tới mức họ chưa kịp nhận thức về những gì họ chứng kiến, nhưng vô thức họ vẫn cảm thấy mọi thứ xung quanh tích cực hơn.
Cơ dẫn, tâm sẽ theo.
 Hãy cư xử tử tế (ngay cả khi bạn không có cảm giác tốt lành), hay cười với ai đó (ngay cả khi bạn không cảm thấy đặc biệt thân thiện ở thời điểm đó). Những điều đó có thể tạo nên những khác biệt thực sự trong tâm trạng và hành vi của bạn, thậm chí cuối cùng là thay đổi cả kết quả của một tình huống.
 Trong khi tất cả những điều trên nghe có vẻ giống những thông điệp giáo điều vớ vẩn, phần nhiều cái mà Puett truyền tải đã được công nhận như trí khôn văn hóa đã bị thất lạc trong kỉ nguyên hiện đại. “Chúng ta là những gì mà chúng ta thường xuyên làm” - Aristotle. Quan điểm đó cũng được chia sẻ bởi Khổng Tử, người đã dạy về tầm quan trọng của các nghi lễ nằm ở chỗ cách chúng khắc sâu một cảm giác nào đó ở một con người. Theo nghiên cứu đã được giới thiệu trong Khoa học Tâm lý, nhà tâm lý học xã hội Amy Cuddy và cộng sự đã phát hiện ra rằng khi chúng ta có một thế đứng quyền lực (đứng với các chân vững chãi, cánh tay vươn ra ngoài và chiếm lĩnh không gian), tư thế đó không chỉ khiến người khác nhìn nhận chúng ta tự tin và quyền lực hơn mà nó còn thực sự tạo nên một sự đột biến nội tiết tố làm chúng ta trở nên tự tin hơn.
Cuối mỗi lớp học, Puett thử thách các sinh viên của mình ứng dụng triết học Trung Hoa được học vào thực tế rõ ràng trong cuộc sống đời thường. “Các triết gia Trung Quốc chúng ta đọc chỉ ra cho chúng ta con đường để thực sự thay đổi cuộc sống tốt đẹp hơn từ những điều rất trần thế, thay đổi cách con người trải nghiệm và hồi đáp lại thế giới. Vì thế tôi cố gắng tiếp thu từ họ ở mức độ đó. Tôi không cố gắng rao giảng cho sinh viên của mình những lời khuyên lớn thực sự về việc phải làm chi với đời mình. Tôi chỉ muốn gợi lên trong họ một cảm tính về cái họ có thể làm hằng ngày để thay đổi cách sống.”
Các bài tập là những mẩu nhỏ như: quan sát lần đầu cách họ cảm nhận khi cười với một người lạ, giữ cửa mở cho ai đó, thử đắm chìm trong một sở thích. GS yêu cầu sinh viên ghi chép lại điều xảy ra kế đó: cách thức mỗi hành động, mỗi cử chỉ diễn ra hoặc ngôn từ ảnh hưởng đáng kể đến cách mà người khác đáp lại mình. Sau đó Puett đề nghị họ theo đuổi thêm các hoạt động họ để ý mà sẽ giúp tăng sự lạc quan và cảm giác hứng khởi. Ở phần ghi chú và thảo luận, sinh viên sẽ thảo luận điều đó có ý nghĩa thế nào đối với cuộc sống theo sự khuyên nhủ của các nhà triết học Trung Hoa.
Một khi họ đã hiểu bản thân mình rõ hơn và khám phá ra điều họ yêu thích, họ có thể làm việc sau đó để trở nên chuyên nghiệp thông qua thực tiễn phong phú và sự tự rèn luyện tu dưỡng bản thân. 

Chúng ta không bị giới hạn bởi tài năng bẩm sinh của chính mình; chúng ta có đủ tiềm lực dồi dào để mở rộng khả năng của mình nếu chịu khó tu dưỡng chúng. Bạn không cần phải bị mắc kẹt làm những thứ bạn tự nhiên đã giỏi; nên tập trung sự chú ý vào điều bạn yêu và tiếp tục tiến lên từ đó.

Hãy tập trung vào thực tế hằng ngày và hiểu được những điều vĩ đại bắt đầu từ những hành động bé nhỏ nhất. Đó là những ý tưởng gốc rễ cho người trẻ sống trong một xã hội vốn chỉ quen đặt áp lực về việc phải nghĩ lớn và vươn tới sự xuất sắc. Điều đó cũng là một lí do lí giải về việc quan tâm đến triết học Trung Hoa lan tỏa ở khắp nước Mĩ chứ không riêng gì ở Harvard theo lộ trình của Giáo dục Đại học. Ai mà chẳng khao khát được quay về với phần con người bị khuất lấp trong thâm tâm? 
(Nguồn: Sưu tẩm)


Friday, November 25, 2016

Đam mê ở đâu?

Đam mê không bao giờ có thể được "tìm thấy". Người ta chỉ làm việc đó, và tự nhiên tận hưởng niềm vui từ đó.
Còn nhớ khi bạn còn nhỏ không? Bạn thích thì bạn làm. Bạn không bao giờ tự hỏi, "Bóng chày thì lợi hơn bóng đá chỗ nào nhỉ?". Bạn chỉ cần chạy xung quanh sân chơi, chơi bóng chày và bóng đá. Bạn xây lâu đài cát, chơi đuổi bắt và hỏi những câu hỏi ngớ ngẩn, sau đó tìm bắt côn trùng, đào bới cỏ, hay giả làm con quái vật chui từ cống lên.
Không ai nói với bạn phải làm điều đó, tự bạn làm những điều đó đấy thôi. Bạn chỉ đơn thuần thích là làm, trí sự tò mò và hứng thú của chính bạn kích thích.
 (Ảnh minh họa)
Ngày trước, điều hay ho là, nếu bạn ghét bóng chày, bạn chỉ đơn giản là không chơi nữa. Không có cảm giác tội lỗi nào. Không có cãi vã hay tranh luận. Bạn có quyền thích nó, hoặc không.
Và nếu bạn thích tìm những chú bọ, bạn chỉ cần làm điều đó. Không có sự phân tích nào kiểu, "Có đúng là việc tìm bọ là những gì tôi nên làm với thời gian của mình khi còn là một đứa trẻ không? Vốn chẳng ai thích tìm bọ, liệu điều đó có nghĩa là tôi có gì đó không bình thường? Việc tìm kiếm mấy con bọ ảnh hưởng đến triển vọng tương lai của tôi thế nào?"
Ngày đó, không có chuyện gì là nhảm nhí. Nếu bạn thích một cái gì đó, bạn chỉ cần làm điều đó.
Hôm nay tôi nhận được email thứ 11,504 trong năm nay từ một người nói với tôi rằng họ không biết phải làm gì với cuộc sống của họ. Và cũng giống như tất cả những người khác, người này hỏi rằng liệu tôi có bất kỳ ý tưởng nào về những gì họ có thể làm, nơi họ có thể bắt đầu, nơi để "tìm thấy niềm đam mê của họ" hay không.
Và tất nhiên, tôi không trả lời. Tại sao? Bởi vì tôi thật sự không có chút manh mối nào cho chuyện đó. Nếu bạn không biết phải làm gì với bản thân, thì điều gì khiến bạn nghĩ rằng một thằng ất ơ có một website sẽ nghĩ ra được? Tôi là nhà văn, chứ không phải thầy bói.
Nhưng quan trọng hơn, những gì tôi muốn nói với những người này là: mấu chốt của toàn bộ vấn đề nằm ở chỗ “không biết” đó.
Cuộc sống, suy cho cùng, là về việc bạn không biết, nhưng dù không biết thì vẫn phải làm một cái gì đó.
Và nếu bạn có nhận ra bạn yêu thích công việc lau dọn bể phốt hiện tại, hoặc mới giành được một công việc mơ ước là viết một kịch bản phim indie; thì cuộc sống của bạn cũng không nhờ thế mà dễ dàng hơn đâu.
Lời phàn nàn phổ biến nhất mà người trẻ hay nói ngày nay là họ cần phải "tìm thấy niềm đam mê của họ.”
Nhảm nhí! Bạn đã tìm thấy niềm đam mê của mình rồi, chỉ là bạn đã lờ nó đi. Nghiêm túc nào, bạn thức tới 16 tiếng một ngày, bạn đã và đang làm gì với chừng ấy thời gian? Bạn phải đang làm gì đó, rõ ràng là vậy. Bạn phải đang nói về một cái gì đó. Hẳn phải có một chủ đề hay hoạt động hoặc ý tưởng nào đó chi phối một lượng đáng kể thời gian rảnh của bạn, cuộc hội thoại của bạn, trình duyệt web của bạn, và nó chi phối chúng mà không cần bạn phải nhận ra hay theo đuổi một cách có chủ đích.
Nó ở ngay trước mặt bạn, bạn chỉ đang tránh nó. Dù với bất cứ lý do gì, bạn đang trốn tránh nó. Bạn đang nói với chính mình, "Ồ, vâng, tôi yêu truyện tranh nhưng chúng không được tính. Bạn không thể kiếm tiền chỉ bằng truyện tranh được."
Ôi quỷ tha ma bắt, bạn thậm chí đã thử chưa?
Vấn đề không phải là thiếu niềm đam mê cho một cái gì đó. Vấn đề là năng suất. Vấn đề là ở nhận thức. Vấn đề là sự chấp nhận.
Vấn đề là, "Ồ, đó không phải là một lựa chọn thực tế," hoặc “Bố mẹ sẽ giết tôi nếu tôi cố gắng làm điều đó, họ nói rằng tôi phải là một bác sĩ" hoặc “Thật điên rồ, bạn không thể mua một chiếc BMW với số tiền bạn kiếm được từ việc đó."
Vấn đề không phải là niềm đam mê. Vấn đề không bao giờ là niềm đam mê.
Đó là các ưu tiên.
Và ngay cả khi ấy thì ai dám nói bạn phải kiếm được tiền từ công việc yêu thích? Kể từ khi nào tất cả mọi người cảm thấy đó là một sự bắt buộc khi phải yêu từng giây một trong công việc của họ? Thực sự đấy, có gì sai trái với chuyện làm một công việc ỔN và bình thường với một số người thú vị mà bạn thích, và sau đó theo đuổi niềm đam mê của bạn trong thời gian rảnh? Chẳng lẽ thế giới đã đảo lộn hoàn toàn hay đây là một ý tưởng đột ngột nào đó bước ra từ văn chương làm ảnh hưởng mọi người?
Hãy nhìn xem, đây là một cái tát trời giáng nữa vào mặt bạn: công việc nào cũng có lúc tồi tệ. Không có những điều như làm những gì bạn đam mê và bạn sẽ không bao giờ cảm thấy mệt mỏi, không bao giờ bị stress, không bao giờ phải phàn nàn. Điều đó không tồn tại. Tôi đang làm công việc trong mơ của mình (công việc ấy đến một cách tình cờ, và trong hàng triệu năm tôi chưa bao giờ lên kế hoạch cho việc này; giống như một đứa trẻ trên sân chơi, tôi chỉ cần đi đến và thử nó), và tôi vẫn ghét khoảng 30% công việc này. Có những ngày còn ghét hơn.
Lại nữa, đó là cuộc sống.
Vấn đề ở đây, một lần nữa, là sự kỳ vọng. Nếu bạn nghĩ rằng bạn đáng nhẽ phải làm việc 70 giờ một tuần và ngủ lại trong văn phòng giống như Steve Jobs và yêu thương từng giây của công việc ấy, bạn đã xem quá nhiều những bộ phim nhảm nhí. Nếu bạn nghĩ rằng bạn đáng nhẽ phải thức dậy mỗi ngày vừa thoát khỏi bộ đồ ngủ vừa nhảy múa bởi vì bạn được đi làm, thì có lẽ bạn đã uống hơi nhiều Kool-Aid. Cuộc sống không vận hành như thế. Như vậy rất không thực tế. Có một điều hầu hết chúng ta ai cũng cần, đó là sự cân bằng.
Tôi có một người bạn, người mà trong ba năm qua, đã cố gắng để xây dựng một doanh nghiệp trực tuyến bán thứ-gì-đó. Nó đã không làm việc. Và khi tôi nói “không làm việc”, có nghĩa là cậu ta thậm chí còn không tiến hành bất cứ việc gì. Bất chấp hàng năm trời "làm việc" và nói rằng cậu sẽ làm điều này hay điều kia, không có việc gì thực sự được thực hiện.
Thay vào đó, những gì thực sự được thực hiện là khi một trong những đồng nghiệp cũ của cậu ta đến thăm với một công việc thiết kế logo hoặc thiết kế một số tài liệu quảng cáo cho một sự kiện. Thề có Chúa, cậu ta lao vào nó như một kẻ chết đói lâu ngày vớ được cái ăn.
Và cậu ấy hoàn thành chúng một cách tuyệt vời! Thức đến 4 giờ sáng chìm đắm bản thân vào công việc và yêu thương chúng từng giây một.
Nhưng hai ngày sau đó chúng lại trở về tình trạng, "Này, tôi không biết đáng ra mình phải làm gì.”
Tôi gặp rất nhiều người như cậu ta. Cậu ấy không cần phải tìm niềm đam mê của mình. Niềm đam mê của chính cậu ấy đã tìm thấy cậu. Nhưng cậu ta lờ chúng đi. Cậu ta từ chối tin rằng việc đó là khả thi. Cậu ta chỉ sợ cái việc phải thật sự thử chúng một cách thật lòng.
Giống như một đứa trẻ ngốc nghếch tiến vào một sân chơi và nói, "Vâng, những con bọ thật sự rất tuyệt, nhưng các cầu thủ NFL kiếm tiền nhiều hơn, vì vậy tôi nên ép buộc bản thân mình chơi bóng đá mỗi ngày," và sau đó trở về nhà và phàn nàn rằng mình không thích giờ ra chơi
Và đó cũng là chuyện nhảm nhí. Mọi người đều thích nghỉ giải lao. Vấn đề là cậu ấy tự ý lựa chọn hạn chế bản thân mình dựa trên một số ý tưởng ngớ ngẩn cậu ta đã nhồi nhét vào đầu về sự thành công và những gì đáng ra phải làm.
Một loại email khác tôi lúc nào cũng nhận được là từ những người muốn được tư vấn về làm thế nào để trở thành một nhà văn.
Và câu trả lời của tôi luôn như nhau: Tôi không có một chút ý tưởng chết tiệt nào cho chuyện đó cả.
Khi còn là một đứa trẻ, tôi thường ở trong phòng viết những mẩu truyện ngắn cho vui. Khi ở tuổi thiếu niên, tôi sẽ viết các bài đánh giá âm nhạc và bài viết về ban nhạc tôi yêu thích rồi sau đó không cho ai xem chúng cả. Khi Internet xuất hiện, tôi đã mất một đống thời gian trên các diễn đàn viết những bài post dài vài trang về các chủ đề ngớ ngẩn - tất cả mọi thứ từ thu mua guitar đến nguyên nhân của cuộc chiến tranh Iraq.
Tôi không bao giờ xem việc viết như một nghề nghiệp tiềm năng. Tôi thậm chí không bao giờ coi nó là một sở thích hay đam mê. Đối với tôi, những điều tôi đã viết chính là niềm đam mê của tôi: âm nhạc, chính trị, triết học. Viết chỉ là một cái gì đó tôi đã làm bởi vì tôi cảm thấy thích được làm như vậy.
Và khi tôi phải tìm kiếm một nghề nghiệp khiến tôi trao thân gửi phận, tôi không cần nhìn đâu xa. Trong thực tế, tôi không phải kiếm tìm bất kì cái gì cả. Nó đã chọn tôi, theo một cách nào đó. Nó đã ở đó. Một việc gì đó tôi đã làm mỗi ngày, kể từ khi tôi còn là một đứa trẻ, thậm chí tôi còn không hề nghĩ về nó.
Bởi vì đây là một điểm nữa có thể làm cho một số người cảm thấy chột dạ:
Nếu bạn phải tìm xem bạn đam mê cái gì, thì có lẽ bạn thật sự không có chút đam mê nào với nó cả.
Nếu bạn đam mê một cái gì đó, bạn sẽ cảm thấy nó như như một phần ăn sâu vào cuộc sống của bạn, bạn sẽ được mọi người nhắc nhở rằng nó không bình thường, rằng người khác không giống như thế.
Tôi đã không hề nghĩ rằng viết những bài 2.000 từ trên các diễn đàn hóa ra lại là điều chẳng ai coi là niềm vui. Anh bạn tôi cũng đã không hề nghĩ rằng hầu hết mọi người lại không thấy việc thiết kế logo là dễ dàng và thú vị. Đối với cậu ấy, nó tự nhiên đến nỗi cậu thậm chí không thể tưởng tượng nó là một cái gì khác. Và đó là lý do tại sao nó có thể là những gì cậu thực sự cần phải làm.
Một đứa trẻ không đi vào một sân chơi và nói với chính mình, "Làm thế nào để tìm thấy niềm vui?" Cô bé ấy sẽ chỉ đi và tận hưởng niềm vui.
Nếu bạn phải tìm kiếm những gì bạn thích trong cuộc sống, thì sau đó bạn sẽ không thật sự hưởng thụ bất cứ điều gì.
Và sự thật là bạn vốn đã thích cái gì đó rồi. Bạn đã thích rất nhiều điều. Bạn chỉ chọn cách bỏ qua chúng mà thôi.
(Nguồn: Sưu tầm)

Wednesday, November 23, 2016

Động lực thúc đẩy làm việc, động lực của sự thành công

Liệu giữa một nhân viên làm việc vì lương cao và làm việc để tạo ra giá trị thì có sự chênh lệch nào về kết quả công việc không?
Có hai loại động lực luôn song hành tồn tại khi chúng ta làm bất cứ việc gì: động lực nội tại và động lực ngoại sinh. Nếu một nhà khoa học tiến hành nghiên cứu để khám phá thế giới, đó chính là động lực nội tại; bởi việc khám phá tri thức về bản chất có liên hệ mật thiết với hành động nghiên cứu khoa học. Đổi lại, nếu cô ấy nghiên cứu vì muốn đạt được danh tiếng của một bậc học giả, cô ấy đang bị chi phối bởi động lực ngoại sinh, bởi không có một mối liên hệ thực sự khả dĩ nào giữa “sự nổi tiếng” và “nghiên cứu khoa học”. Thông thường, cả động lưc nội tại và ngoại sinh đều thúc đẩy con người ta.
(Ảnh sách)
Vậy, loại động lực nào có khả năng đem tới thành công cao nhất - động lực nội tại, động lực ngoại tại hay kết hợp cả hai? Bạn có thể cho rằng một nhà khoa học vừa mang trong mình khao khát được tìm hiểu thế giới vừa muốn được nhiều người biết đến sẽ đạt kết quả tốt hơn nhiều so với khi cô ấy chỉ chịu tác động bởi một trong hai loại động lực trên. Chắc chắn rằng, hai luôn tốt hơn một. Nhưng, như Amy Wrzesniewski, giáo sư về hành vi học tại Trường Quản lý Yale và Barry Schwartz, giáo sư tâm lý học tại Swarthmore College cùng các đồng nghiệp đã lập luận trong một bài viết vừa mới được công bố trong bản Báo cáo chính thức sau cuộc hội đàm của Học viện Khoa học Quốc gia đã viết rằng:
Động lực ngoại sinh không phải khi nào cũng có ích, thậm chí đôi khi còn trở thành con dao hai lưỡi, ảnh hưởng trực tiếp tới thành công.
Các giáo sư đã phân tích dữ liệu thu thập được từ 11,320 học viên trong chín lớp đầu vào tại Học viện Quân sự Hoa Kỳ tại West Point; mỗi người tự đánh giá ảnh hưởng của mỗi nhóm động lực của bản thân họ trong quyết định theo học tại trường. Các nhóm động lực bao gồm như: mong muốn có một công việc tốt sau khi ra trường (động lực ngoại sinh) hay khao khát được huấn luyện và gia nhập đội ngũ lãnh đạo trong quân đội Hoa Kỳ (động lực nội tại).
Nhiều năm sau, các học viên đã phát triển sự nghiệp của mình như thế nào? Và, những thành tích họ đạt được liên hệ ra sao với những động lực ban đầu của họ khi đến West Point?
Không mấy bất ngờ khi kết quả phân tích cho thấy, những học viên có nguồn động lực nội tại càng mạnh mẽ, sẽ càng có nhiều khả năng tốt nghiệp và trở thành những sĩ quan với cấp bậc cao trong quân đội. Bên cạnh đó, những học viên mang trong mình nguồn động lực nội tại sẽ có những thành tích cao hơn khi phục vụ trong quân ngũ (mà điều này được minh chứng bởi những đề đạt thăng cấp ban đầu), đồng thời cũng có nhiều khả năng sẽ tiếp tục phụng sự quốc gia trong quân ngũ sau khi kết thúc 5 năm nghĩa vụ bắt buộc, so với những học viên không có những nguồn động lực này - đó là nếu, đây mới là điều bất ngờ: những động lực ngoại sinh không thôi thúc họ mạnh mẽ ngay từ phút ban đầu.
Điều đáng chú ý là những người có cả hai nguồn động lực cùng phát sinh mạnh mẽ lại thể hiện kém hơn về mọi phương diện khi so sánh tương quan với những người có nhiều động lực nội tại hơn. Họ ít có khả năng tốt nghiệp, khó có thể trở thành một sỹ quan ưu tú hay quyết tâm cống hiến lâu dài trong quân đội.
Phát hiện trên đã đem lại cho chúng ta những kết quả vô cùng quan trọng. Thông thường, khi chúng ta làm tốt một công việc gì, ta sẽ nhận được kết quả “nội tại” và “ngoại sinh”. Một học sinh chăm chỉ, nghiêm túc học hành có được kiến thức (kết quả “nội tại”), đồng thời được điểm tốt (kết quả “ngoại sinh”). Một bác sĩ tay nghề cao có thể vừa cứu chữa được cho bệnh nhân (kết quả “nội tại”), vừa có một cuộc sống đầy đủ (kết quả “ngoại sinh”). Nhưng không phải vì mỗi hành động đều có kết quả nội tại hay ngoại sinh mà mỗi cá nhân làm gì cũng đều cần có cả hai loại động lực ấy.
Qua nghiên cứu, các giáo sư đề xuất  rằng, chúng ta nên cố gắng nỗ lực để tổ chức, tái cấu trúc các hoạt động sao cho những “kết quả ngoại sinh” không trở thành những “động lực ngoại sinh”. Khi làm việc, hãy tập trung vào ý nghĩa của công việc và những ảnh hưởng tích cực mà công việc đó mang lại thay vì những lợi ích về mặt kinh tế. Đó có lẽ là cách tốt nhất để không chỉ nâng cao chất lượng công việc, mà còn giúp bạn kiếm được nhiều tiền hơn, dù điều này thoạt đầu có vẻ như thật nghịch lý.
Nếu việc trở thành một sỹ quan ưu tú và phụng sự quốc gia không thể thu hút được tất cả những ứng viên mà Quân đội cần chiêu mộ, thì có thể những lời hứa hẹn hấp dẫn về việc “không cần trang trải học phí”, “được đào tạo nghề nghiệp” hay “mở mang tầm mắt ra thế giới” sẽ có tác dụng. Mặc dù chiến lược này có thể mang đến kết quả tích cực hơn về mặt số lượng, nó lại dẫn đến một kết quả tồi hơn về mặt chất lượng (những binh sĩ kém hơn). Tương tự như vậy, với những sinh viên không hứng thú với chuyện học hành, khuyến khích họ đi học để được thưởng tiền hay học thật tốt để đổi lại những bữa pizza thỏa thích có thể làm cho họ đến trường, nhưng cuối cùng lại tạo ra những sinh viên có học lực kém hơn.
Để tạo động lực cho các giáo viên cũng vậy, chúng ta lo lắng khi họ “chỉ dạy cho học sinh để đi thi” bởi điều này thực sự đã đi quá xa khỏi khái niệm giáo dục chân chính. Có thể những người giáo viên làm vậy bởi họ quá áp lực với tính trách nhiệm cao điển hình của nghề này, điều vô hình chung đã chuyển những kết quả ngoại sinh của việc “dạy tốt” (như tiền thưởng) thành những động lực ngoại sinh. Tinh thần trách nhiệm rất quan trọng, nhưng nếu không được vận dụng đúng đắn, thay vì được sinh ra để ngăn cản, nó lại có thể tạo ra những hành vi rất cực đoan (như việc “dạy kém”).
Việc nhấn mạnh vào cả động lực nội tại và động lực ngoại sinh để “quảng cáo” một hoạt động hấp dẫn hơn, nhằm khuyến khích các cá nhân tham gia vào hoạt động đó là điều hoàn toàn dễ hiểu, thế nhưng điều này có thể đem lại những tác động tiêu cực không ai mong muốn khi nó làm mai một dần đi những động lực nội tại, mà điều này lại là gốc rễ cho mọi thành công. 
(Nguồn: Sưu tầm)