Sunday, April 17, 2016

Một số tên gọi trong dịp Tết Nguyên Đán


- Táo quân, Táo công, Ông Táo. Táo là bếp, Quân là vua, Công là ngài, Táo quân là Vua bếp. 23 tháng Chạp cúng Ông Táo, Tết bắt đầu. Ông Táo là cách gọi kết họp tiếng thuần Việt (Ông) và Hán-Việt (Táo).  
(Ảnh: Ông táo)
  
- Tất niên. Tất là cuối cùng, niên là năm. Tất niên là gọi tắt của “Ngày tất niên”, ngày cuối cùng của năm.
- Trừ tịch. Trừ là bỏ, tịch là đêm. Trừ tịch là Đêm cuối cùng của năm, còn gọi là đêm Giao thừa, vì đến nửa đêm hết Trừ tịch là Giao thừa.
- Giao thừa. Giao là chuyển qua, thừa là tiếp nối. Giao thừa là thời khắc chuyển từ hết ngày cuối năm này sang ngày đầu năm tiếp theo, diễn ra vào giờ Tý (23-01 giờ), cũng là lúc năm cũ chuyên giao năm mới. Giao thừa của Dương lịch vào lúc 12 giờ đêm (0 giờ sáng) ngày đầu năm 1/1, tức giờ Chính Tý (giữa giờ Tý) của Âm lịch.
- Mùng (mồng). Mùng là những ngày từ 1 đến 10. Ngày đầu năm là mùng 1 Tết, các ngày tiếp theo là các mùng 2, 3, 4, 5...Tết, cho đến hết mùng 10. Từ ngày 11 trở đi đến hết tháng thì không gọi là mùng nữa mà gọi là ngày, không kèm chữ Tết nữa mà thay bằng tháng Giêng: Mùng 1 Tết, ngày 11 tháng Giêng. Cách gọi như trên cũng dùng cho các tháng khác, chỉ thay tên cho đúng tháng.
- Lên nêu. Trồng cây nêu, vào Tết.
(Ảnh: Cây Nêu)

 - Khai hạ. Khai là bỏ (ngược với Khai là mở ra), hạ là cho xuống. Mùng 7 Tất hạ cây nêu, báo Tết đã qua, trở lại làm việc.
(Nguồn: Kiến thức phổ thông)

No comments:

Post a Comment