Trong bộ phim “Titanic”, sau khi con tàu hào hoa tráng lệ nhất
thời bấy giờ đầm vào tảng băng và gặp nạn, vị thuyền trưởng đã mệnh lệnh cho
các nhân viên trên tàu liên tục phát tín hiệu cầu cứu SOS đối với các thuyền bè
mọi phía xung quanh. SOS đã trở thành một từ phổ biến được dùng riêng cho việc
cầu cứu. Vậy bạn có biết tại sao lại dùng từ này làm tín hiệu cầu cứu?
Một số người cho rằng: SOS là những chữ đầu của cụm từ SAVE OUR
SHIP, tức là “xin hãy cứu con thuyền của chúng tôi”. Cách nói này rất phổ biến.
Bởi vì có không ít những thuật ngữ chuyên môn trong tiếng Anh rất phổ biến là
dùng những chữ ở đầu mỗi từ ghép lại thành một từ mới mang tính chất đại diện.
(Ảnh min họa)
Nhưng các nhân viên hàng hải chuyên nghiệp thì thường cho rằng, sỡ
dĩ SOS trở thành từ chuyên dụng cho việc cầu cứu khi gặp nạn nhân trên biển,
nguyên nhân là ở hệ thống mật mã vô tuyến điện Mooc, S thay cho ba vạch ngắn
“tit tit tit”, còn O thay cho ba vạch dài “ta ta ta”, khi nối với nhau sẽ là
“ba ngắn, ba dài, ba ngắn”, không những các nhân viên phát tín hiệu rất tiện
lợi, không bị hỗn loạn với những tín hiệu khác, đồng thời cũng dễ gây sự chú ý
của những người tiếp nhận tín hiệu. Quan điểm này có những lý do về mặt kỹ
thuật.
Sau khi kết hợp hai tình huống trên lại, chúng ta có được giải
thích toàn diện hơn về SOS.
Khi các con tàu dừng lại ở bến cảng, trạm vô tuyến điện trên tàu
sẽ dừng làm việc, và khi ra khơi chúng lại tiếp tục làm việc liên tục. Trên
thực tế, ngoài thời gian làm việc đã quen theo quy định, các báo vụ viên không
nhất định phải làm việc trước máy. Nhưng khi tàu gặp nguy hiểm, công việc của
báo vụ viên lại cực kỳ quan trọng. Anh ta cần phải căn cứ vào mệnh lệnh của
thuyền trưởng để phát các tín hiệu SOS. Theo quy định, báo vụ viên và thuyền
trưởng là người rời thuyền cuối cùng sau khi tàu gặp sự cố.
Sau khi báo vụ viên phát ra tín hiệu SOS, họ phải phát các
tín hiệu thông báo về phương hướng, vị trí, kinh độ, vĩ độ chính xác và cho các
tàu khác tới cứu viện. Báo vụ viên cần liên tục phát ra tín hiệu SOS với tốc độ
nhất định, đồng thời cách một quãng thời gian lại thu, nghe tín hiệu trả lời và
chỉ thị của các tàu khác. Vì vậy công việc của người báo vụ viên trên tàu là vô
cùng quang trọng, cũng cực kỳ nguy hiểm.
Hiện nay, không ít các con tàu hiện đại đã được lắp đặt hệ thống
tín hiệu cầu cứu tự động. Cũng tức là máy báo tự động sau khi tàu bị nạn sẽ
liên tục phát ra tín hiệu ba ngắn, ba dài, ba ngắn với một tốc độ nhất định,
các tàu hoặc thiết bị tiếp nhận tự động ở các bến cảng sau khi tiếp nhận được
tín hiệu chuẩn này sẽ phát tín hiệu cảnh báo, người báo vụ viên trực sẽ lập tức
tiếp nhận tín hiệu con thuyền gặp nạn và cố gắng liên lạc bằng mọi cách.
Hệ thống tự động này đã giảm đi nhiều mức độ lao động của các báo
vụ viên, cũng chính xác đáng tin cậy hơn.
(Nguồn: Ánh sáng tri thức khoa học)
No comments:
Post a Comment