Saturday, November 19, 2016

Sáng tạo và sự cô đơn

 “Nếu không có sự cô độc lớn lao, không một tác phẩm tử tế nào có thể sinh ra” - Picasso đã nói
 Steve Wozniak, đồng sáng lập hãng Apple, viết trong cuốn hồi kí của mình như sau: “Phần lớn những nhà phát minh và các kỹ sư tôi đã gặp đều có có điểm chung như tôi … họ sống trong cái đầu của họ... Tôi sẽ cho các bạn một lời khuyên mà hẳn các bạn sẽ thấy lạ lùng lắm. Lời khuyên là: Hãy làm việc một mình … Không phải với một đội ngũ. Cũng chẳng phải trong một nhóm."
 Nghiên cứu chỉ ra rằng con người có khả năng sáng tạo tốt hơn khi họ được ở một mình, tận hưởng sự riêng tư và tự do khỏi những điều sao nhãng. Và những người có khả năng sáng tạo phi thường nhất, trong nhiều ngành nghề khác nhau, phần lớn lại là những người hướng nội (introvert) - dựa theo một nghiên cứu của hai nhà tâm lý học Mihaly Csikszentmihalyi và Gregory Feist.
 Khi học đại học, các giáo viên của tôi dường như có một cái mốt là hầu như trong môn nào cũng bắt sinh viên phân nhóm để làm bài. Khi tham gia các khóa học đào tạo, những người hướng dẫn cũng liên tục chia tôi và các bạn thành các nhóm làm việc. Khi đi làm, việc thiết kế các bàn làm việc không ngăn, ngồi tất cả một dãy (open-space), giống như các không gian co-working đang nở rộ hiện nay, phát triển như một trào lưu mới nhưng đi kèm với nó lại là sự thu hẹp lại của các không gian riêng tư của nhân viên.
(Ảnh: minh họa)
 Khi đi đến quán cà phê, sự yên tĩnh dường như làm mọi người phát bệnh tới mức lúc nào họ luôn phải bật một bản nhạc gì đó. Có vẻ như, chuyện để một cá nhân có không gian riêng tư, trầm tư suy nghĩ và làm việc một mình là một sự xa xỉ mà xã hội không thể kham nổi được nữa, ngoại trừ căn phòng vệ sinh, pháo đài cố thủ cuối cùng mà tôi có thể dành được để đọc sách.
 Xung quanh câu chuyện này là một niềm tin sắt đá cho rằng 10 cái đầu thì luôn hơn 1 cái đầu, hay cụm từ cửa miệng, hãy “brainstorm” để ra ý tưởng nào. Nhưng điều này có thật sự tốt nhất cho sự sáng tạo không?
 Làm việc nhóm đã giết chết sự tĩnh lặng, sự cô độc, thứ vô cùng cần thiết cho khởi nguồn sáng tạo. Trong các câu chuyện tôn giáo, những người tìm kiếm như Moses, Jesus, Đức Phật cũng phải tìm đến những nơi hẻo lánh, không có ai để có tìm kiếm được sự giác ngộ, chứ không phải ngồi “brainstorm” với các phật tử hay con chiên của mình.

Làm việc với sự cô đơn, trái với nhầm tưởng của nhiều người, có rất nhiều lợi ích. Thứ nhất, nó giúp chúng ta làm việc hiệu quả hơn. Trong một nghiên cứu, 2 tác giả so sánh các sản phẩm của hơn 600 lập trình viên máy tính từ 92 công ty. Và họ tìm ra rằng các sản phẩm tốt nhất không phải do nhân viên giỏi hơn hay có lương thưởng nhiều hơn, mà là họ có nhiều sự cô đơn hơn. 62% những người thể hiện tốt nhất nói rằng không gian làm việc của họ đủ riêng tư, trong khi con số này chỉ là 19% với những người có kết quả thấp nhất.
 “Hàng chục năm nghiên cứu chỉ ra rằng cá nhân làm việc gần như luôn có hiệu suất cao hơn làm việc nhóm cả về chất lượng lẫn số lượng, và hiệu suất nhóm càng thấp khi số người trong nhóm càng cao. “Bằng chứng từ khoa học cho ta thấy các doanh nhân hẳn là phải ấm đầu mới sử dụng ‘những phiên họp động não nhóm’”, nhà tâm lý tổ chức Adrian Furnham viết. “Nếu bạn có những con người tài năng và tích cực, họ nên được khuyến khích để làm một mình - khi mà khả năng sáng tạo và hiệu suất đạt mức cao nhất."
 Thứ hai, cô đơn giúp ta học tốt hơn. “Theo một nghiên cứu về khả năng làm việc của các chuyên gia hàng đầu bởi nhà tâm lý học Anders Ericsson, cách tốt nhất để thành thạo trong một lĩnh vực đó là làm công việc khó nhất với bạn. Và thường cách tốt nhất đó là làm nó một mình. Chỉ khi đó, Ericsson nói với tôi, bạn mới có thể “trực tiếp tiếp cận những thử thách khó khăn nhất cho bạn. Nếu muốn tiến bộ, bạn phải là người chủ động dấn thân. Hãy nghĩ đến một lớp học mà xem - bạn chẳng mấy khi chủ động làm bất cứ điều gì cả. Toàn là những ai khác bảo bạn phải làm gì với làm gì."
 Mời các bạn đọc tiếp bài viết mà Read Station đã dịch của tác giả SUSAN CAIN với tựa đề The Rise of the New Groupthink đăng trên tờ báo Nytimes. Bài dịch có độ dài khoảng 3200 từ, mất 15’ để đọc.
 Sự lên ngôi của Tư duy tập thể kiểu mới
 Sự cô độc đã trở nên lỗi mốt. Các công ty, các trường học và nền văn hoá của chúng ta đang là nô lệ của kiểu tư duy tập thể kiểu mới quan niệm rằng thành tựu và sáng tạo được tạo ra từ các tập thể. Phần lớn chúng ta, do vậy, làm việc theo nhóm, trong những văn phòng không vách, cho những viên quản lý coi trọng kỹ năng hơn hết thảy. Những thiên tài cô độc không còn chỗ đứng. Và hợp tác thì được đặt lên hàng đầu.
 Quan niệm này đã nảy sinh một mâu thuẫn. Nghiên cứu chỉ ra rằng con người có khả năng sáng tạo tốt hơn khi họ được ở một mình, tận hưởng sự riêng tư và tự do khỏi những điều sao nhãng. Và những người có khả năng sáng tạo phi thường nhất, trong nhiều ngành nghề khác nhau, phần lớn lại là những người hướng nội (introvert) - dựa theo một nghiên cứu của hai nhà tâm lý học Mihaly Csikszentmihalyi và Gregory Feist. Họ đủ hướng ngoại để chia sẻ và thúc đẩy những ý tưởng, nhưng họ luôn nhận thức về bản thân như là một cá nhân độc lập. Bản chất họ đã không phải là những kẻ thích chạy theo mốt.
 Một lời giải thích cho những phát hiện này là: những người hướng nội thường cảm thấy thoải mái khi làm việc một mình - và sự cô đơn lại là chất xúc tác cho sáng tạo. Như nhà tâm lý học nổi tiếng Hans Eysenck đã quan sát, sự hướng nội nuôi dưỡng khả năng sáng tạo bằng cách “tập trung tâm trí vào công việc đang làm, ngăn cản sự tiêu phí năng lượng vào những thứ không liên quan như các vấn đề xã hội và giới tính”. Nói cách khác, một người ngồi yên lặng dưới gốc cây ngoài vườn - trong khi những người khác đang rôm rả cụng ly ở trong - khả năng cao hơn sẽ có táo rơi vào đầu hơn. (Newton là một trong những người hướng nội vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: William Wordsworth đã miêu tả ông qua đoạn thơ sau: “Mãi mãi một trí tuệ/ Hành hương qua những biển cả xa lạ của Suy tư, trong cô độc.”)
 Cô độc từ lâu đã liên quan đến khả năng sáng tạo và sự siêu việt. “Nếu không có sự cô độc lớn lao, không một tác phẩm tử tế nào có thể sinh ra”, Picasso đã nói. Trung tâm của những câu chuyện tôn giáo chính là những người tìm kiếm - Moses, Jesus, Đức Phật - những người đã rời xa đám đông để khi quay trở về, họ mang theo những nhận thức và hiểu biết sâu sắc cho cộng đồng.
 Chúng ta vẫn thường bị loá mắt bởi những ngôn từ to lớn, những tài hùng biện, thuyết phục mà thường lãng quên mất phần tĩnh lặng của quá trình sáng tạo. Apple là một ví dụ. Sau cái chết của Steve Jobs, chúng ta có dịp được nghe những điển tích xung quanh sự thành công của công ty này. Phần lớn mọi người đều ca ngợi tài thu hút và sức quyến rũ của Steve Jobs đến mức quên đi nhân vật quan trọng còn lại của Apple: một kỹ sư phù thuỷ, đồng thời là một người hướng nội và nhân ái - Steve Wozniak, người đã vất vả khó nhọc miệt mài vào một phát minh được mến mộ và biết ơn bởi cả nhân loại, chiếc máy tính cá nhân
 Du hành thời gian trở lại vào tháng 3 năm 1975: Wozniak tin rằng thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn nếu tất cả mọi người đều có một chiếc máy tính thân thiện với người dùng. Nó có vẻ như là một giấc mơ xa vời - phần lớn các máy tính thời đó có kích cỡ của một chiếc minivan và còn đắt đỏ hơn bây giờ rất nhiều. Nhưng Wozniak đã gặp được một nhóm các kỹ sư hợp cạ tự gọi mình là Câu lạc bộ Máy tính Ủ-bia-tại-nhà (Xem thêm: Homebrew Computer Club) Những kẻ Ủ-bia-tại-nhà này vô cùng hào hứng với chiếc máy tính thô sơ mới ra tên là Altair 8800. Wozniak, nhờ vậy, được truyền cảm hứng, và ngay lập tức bắt tay vào làm chiếc máy tính kỳ diệu của riêng ông. Ba tháng sau, ông hé lộ phát minh tuyệt vời của mình cho người bạn Steve Jobs. Wozniak đã định công bố phát minh của mình rộng rãi và miễn phí, nhưng Jobs thuyết phục ông cùng sáng lập hãng máy tính Apple.
@Andy Rementer
Câu chuyện về sự sinh ra của Apple dậy cho chúng ta một bài học về sức mạnh của sự hợp tác. Wozniak đã có thể không được truyền cảm hứng bởi Altar nếu không có những người bạn hợp ông như CLB Ủ-bia-tại-nhà. Và có thể ông sẽ không bao giờ sáng lập Apple nếu không có Steve Jobs.
 Nhưng nó đồng thời cũng là một bài học về tinh thần độc lập. Nếu bạn quan sát cách mà Wozniak đã làm việc - sự miệt mài cố gắng để tạo nên điều gì đó từ không gì cả - bạn sẽ nhận ra rằng ông đã làm nó một mình. Trong những đêm khuya thức trắng, hoàn toàn đơn độc.
 Trong cuốn hồi ký, Wozniak đã hướng dẫn thế này cho những nhà phát minh tương lai:
 “Phần lớn những nhà phát minh và các kỹ sư tôi đã gặp đều có có điểm chung như tôi … họ sống trong cái đầu của họ. Họ gần như là những người nghệ sĩ vậy. Thực ra, những người xuất chúng nhất trong số họ là những nghệ sĩ. Và nghệ sĩ thì làm việc tốt nhất khi ở một mình … Tôi sẽ cho các bạn một lời khuyên mà hẳn các bạn sẽ thấy lạ lùng lắm. Lời khuyên là: Hãy làm việc một mình … Không phải với một đội ngũ. Cũng chẳng phải trong một nhóm."
 Vậy mà, tư duy nhóm kiểu mới đã chiếm lấy những không gian làm việc của chúng ta, trường học của chúng ta, các tổ chức tôn giáo của chúng ta. Tất cả những ai từng ước ao một không gian không ô nhiễm bởi tiếng chuông điện thoại trong văn phòng, hay những ai đã từng đánh dấu trên lịch một cuộc hẹn giả để trốn tránh một cuộc hẹn thật đều hiểu tôi đang nói về cái gì. Thực tế là tất cả những người lao động ở Mỹ bây giờ đều dành thời gian làm việc nhóm, với khoảng 70% phải làm trong những văn phòng có không gian thiết kế mở - nơi mà không ai có nổi một căn phòng cho riêng mình. Trong những thập niên gần đây, diện tích không gian trung bình mỗi nhân viên có được giảm xuống chỉ còn khoảng 19 mét vuông (năm 2010) từ con số 47 mét vuông (những năm 1970).
 Trường học của chúng ta cũng đã thay đổi diện mạo bởi tư duy tập thể kiểu mới này. Ngày nay, các em học sinh tiểu học thường được xếp vào những tốp khác nhau để thuận lợi hơn cho việc thúc đẩy học nhóm. Ngay cả những môn học như toán hay sáng tác văn học cũng được dậy theo kiểu dự án nhóm. Trong một lớp bốn của một trường tiểu học tôi có dịp ghé thăm ở New York, học sinh trong mỗi nhóm không được phép đặt câu hỏi trừ khi tất cả thành viên trong nhóm đều có chung câu hỏi đó.

 Thứ tư duy tập thể kiểu mới này còn xuất hiện trong những tổ chức tôn giáo thế lực nhất. Rất nhiều nhà thờ lớn thường tổ chức hoạt động ngoại khoá theo nhóm với mỗi hoạt động họ có thể nghĩ ra được , từ việc dạy con ra sao tới trượt ván hay đầu tư bất động sản, và kì vọng những người theo đạo cùng tham gia. Không những vậy, họ còn thúc đẩy kiểu tôn sùng màu mè điệu bộ - yêu Chúa Jesus ra thành lời, cho tất cả các giáo dân nhìn thấy. “Thường thì vai trò của một mục sư trông có vẻ như gần với giám đốc nhà thờ hơn là một người bạn tâm linh hay một người chỉ dắt”, Adam Mchugh - một mục sư Phúc âm đồng thời là tác giả cuốn sách “Những người hướng nội trong Nhà thờ” - nói.

(Nguồn: Sưu tầm)

No comments:

Post a Comment