“Nếu không có sự cô độc lớn
lao, không một tác phẩm tử tế nào có thể sinh ra” - Picasso đã nói
Steve Wozniak, đồng sáng lập hãng Apple, viết trong cuốn hồi
kí của mình như sau: “Phần lớn những nhà phát minh và các kỹ sư tôi đã gặp đều
có có điểm chung như tôi … họ sống trong cái đầu của họ... Tôi sẽ cho các
bạn một lời khuyên mà hẳn các bạn sẽ thấy lạ lùng lắm. Lời khuyên là: Hãy làm
việc một mình … Không phải với một đội ngũ. Cũng chẳng phải trong một
nhóm."
Nghiên cứu chỉ ra rằng con người có khả năng sáng tạo tốt
hơn khi họ được ở một mình, tận hưởng sự riêng tư và tự do khỏi những điều
sao nhãng. Và những người có khả năng sáng tạo phi thường nhất, trong
nhiều ngành nghề khác nhau, phần lớn lại là những người hướng nội (introvert) -
dựa theo một nghiên cứu của hai nhà tâm lý học Mihaly Csikszentmihalyi và
Gregory Feist.
Khi học đại học, các giáo viên của tôi dường như có một cái
mốt là hầu như trong môn nào cũng bắt sinh viên phân nhóm để làm bài. Khi
tham gia các khóa học đào tạo, những người hướng dẫn cũng liên tục chia tôi và
các bạn thành các nhóm làm việc. Khi đi làm, việc thiết kế các bàn làm
việc không ngăn, ngồi tất cả một dãy (open-space), giống như các không
gian co-working đang nở rộ hiện nay, phát triển như một trào lưu mới
nhưng đi kèm với nó lại là sự thu hẹp lại của các không gian riêng tư của nhân
viên.
(Ảnh: minh họa)
Khi đi đến quán cà phê, sự yên tĩnh dường như làm mọi người
phát bệnh tới mức lúc nào họ luôn phải bật một bản nhạc gì đó. Có vẻ như,
chuyện để một cá nhân có không gian riêng tư, trầm tư suy nghĩ và làm việc một
mình là một sự xa xỉ mà xã hội không thể kham nổi được nữa, ngoại trừ căn phòng
vệ sinh, pháo đài cố thủ cuối cùng mà tôi có thể dành được để đọc sách.
Xung quanh câu chuyện này là một niềm tin sắt đá cho rằng 10
cái đầu thì luôn hơn 1 cái đầu, hay cụm từ cửa miệng, hãy “brainstorm” để ra ý
tưởng nào. Nhưng điều này có thật sự tốt nhất cho sự sáng tạo không?
Làm việc nhóm đã giết chết sự tĩnh lặng, sự cô độc, thứ vô
cùng cần thiết cho khởi nguồn sáng tạo. Trong các câu chuyện tôn giáo, những
người tìm kiếm như Moses, Jesus, Đức Phật cũng phải tìm đến những nơi hẻo lánh,
không có ai để có tìm kiếm được sự giác ngộ, chứ không phải ngồi “brainstorm”
với các phật tử hay con chiên của mình.
Làm việc với sự cô đơn, trái với nhầm tưởng của nhiều người, có
rất nhiều lợi ích. Thứ nhất, nó giúp chúng ta làm việc hiệu quả
hơn. Trong một nghiên cứu, 2 tác giả so sánh các sản phẩm của hơn 600 lập
trình viên máy tính từ 92 công ty. Và họ tìm ra rằng các sản phẩm tốt nhất
không phải do nhân viên giỏi hơn hay có lương thưởng nhiều hơn, mà là họ
có nhiều sự cô đơn hơn. 62% những người thể hiện tốt nhất nói rằng không gian
làm việc của họ đủ riêng tư, trong khi con số này chỉ là 19% với những người có
kết quả thấp nhất.
“Hàng chục năm nghiên cứu chỉ ra rằng cá nhân làm việc
gần như luôn có hiệu suất cao hơn làm việc nhóm cả về chất lượng lẫn số lượng,
và hiệu suất nhóm càng thấp khi số người trong nhóm càng cao. “Bằng chứng từ
khoa học cho ta thấy các doanh nhân hẳn là phải ấm đầu mới sử dụng ‘những phiên
họp động não nhóm’”, nhà tâm lý tổ chức Adrian Furnham viết. “Nếu bạn có
những con người tài năng và tích cực, họ nên được khuyến khích để làm một mình
- khi mà khả năng sáng tạo và hiệu suất đạt mức cao nhất."
Thứ hai, cô đơn giúp ta học tốt hơn. “Theo một nghiên cứu về
khả năng làm việc của các chuyên gia hàng đầu bởi nhà tâm lý học Anders
Ericsson, cách tốt nhất để thành thạo trong một lĩnh vực đó là làm công
việc khó nhất với bạn. Và thường cách tốt nhất đó là làm nó một mình. Chỉ khi
đó, Ericsson nói với tôi, bạn mới có thể “trực tiếp tiếp cận những thử thách
khó khăn nhất cho bạn. Nếu muốn tiến bộ, bạn phải là người chủ động dấn
thân. Hãy nghĩ đến một lớp học mà xem - bạn chẳng mấy khi chủ động làm bất cứ
điều gì cả. Toàn là những ai khác bảo bạn phải làm gì với làm gì."
Mời các bạn đọc tiếp bài viết mà Read Station đã dịch của
tác giả SUSAN CAIN với tựa đề The Rise of the New Groupthink đăng trên tờ báo Nytimes. Bài
dịch có độ dài khoảng 3200 từ, mất 15’ để đọc.
Sự lên ngôi của Tư duy
tập thể kiểu mới
Sự cô độc đã trở nên lỗi mốt. Các công ty, các trường học và
nền văn hoá của chúng ta đang là nô lệ của kiểu tư duy tập thể kiểu mới quan
niệm rằng thành tựu và sáng tạo được tạo ra từ các tập thể. Phần lớn chúng ta,
do vậy, làm việc theo nhóm, trong những văn phòng không vách, cho những viên
quản lý coi trọng kỹ năng hơn hết thảy. Những thiên tài cô độc không còn chỗ
đứng. Và hợp tác thì được đặt lên hàng đầu.
Quan niệm này đã nảy sinh một mâu thuẫn. Nghiên cứu chỉ ra
rằng con người có khả năng sáng tạo tốt hơn khi họ được ở một mình, tận hưởng
sự riêng tư và tự do khỏi những điều sao nhãng. Và những người có khả năng sáng
tạo phi thường nhất, trong nhiều ngành nghề khác nhau, phần lớn lại là những
người hướng nội (introvert) - dựa theo một nghiên cứu của hai nhà tâm lý học
Mihaly Csikszentmihalyi và Gregory Feist. Họ đủ hướng ngoại để chia sẻ và
thúc đẩy những ý tưởng, nhưng họ luôn nhận thức về bản thân như là một cá nhân
độc lập. Bản chất họ đã không phải là những kẻ thích chạy theo mốt.
Một lời giải thích cho những phát hiện này là: những người
hướng nội thường cảm thấy thoải mái khi làm việc một mình - và sự cô đơn lại là
chất xúc tác cho sáng tạo. Như nhà tâm lý học nổi tiếng Hans Eysenck đã quan
sát, sự hướng nội nuôi dưỡng khả năng sáng tạo bằng cách “tập trung tâm trí vào
công việc đang làm, ngăn cản sự tiêu phí năng lượng vào những thứ không liên
quan như các vấn đề xã hội và giới tính”. Nói cách khác, một người ngồi
yên lặng dưới gốc cây ngoài vườn - trong khi những người khác đang rôm rả cụng
ly ở trong - khả năng cao hơn sẽ có táo rơi vào đầu hơn. (Newton là một
trong những người hướng nội vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: William Wordsworth
đã miêu tả ông qua đoạn thơ sau: “Mãi mãi một trí tuệ/ Hành hương qua những
biển cả xa lạ của Suy tư, trong cô độc.”)
Cô độc từ lâu đã liên quan đến khả năng sáng tạo và sự siêu
việt. “Nếu không có sự cô độc lớn lao, không một tác phẩm tử tế nào có thể sinh
ra”, Picasso đã nói. Trung tâm của những câu chuyện tôn giáo chính là
những người tìm kiếm - Moses, Jesus, Đức Phật - những người đã rời xa đám đông
để khi quay trở về, họ mang theo những nhận thức và hiểu biết sâu sắc cho cộng
đồng.
Chúng ta vẫn thường bị loá mắt bởi những ngôn từ to lớn,
những tài hùng biện, thuyết phục mà thường lãng quên mất phần tĩnh lặng của quá
trình sáng tạo. Apple là một ví dụ. Sau cái chết của Steve Jobs, chúng ta có
dịp được nghe những điển tích xung quanh sự thành công của công ty này. Phần
lớn mọi người đều ca ngợi tài thu hút và sức quyến rũ của Steve Jobs đến mức
quên đi nhân vật quan trọng còn lại của Apple: một kỹ sư phù thuỷ, đồng thời là
một người hướng nội và nhân ái - Steve Wozniak, người đã vất vả khó nhọc miệt
mài vào một phát minh được mến mộ và biết ơn bởi cả nhân loại, chiếc máy tính
cá nhân
Du hành thời gian trở lại vào tháng 3 năm 1975: Wozniak tin
rằng thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn nếu tất cả mọi người đều có một chiếc máy
tính thân thiện với người dùng. Nó có vẻ như là một giấc mơ xa vời - phần lớn
các máy tính thời đó có kích cỡ của một chiếc minivan và còn đắt đỏ hơn bây giờ
rất nhiều. Nhưng Wozniak đã gặp được một nhóm các kỹ sư hợp cạ tự gọi mình là
Câu lạc bộ Máy tính Ủ-bia-tại-nhà (Xem thêm: Homebrew Computer Club) Những kẻ
Ủ-bia-tại-nhà này vô cùng hào hứng với chiếc máy tính thô sơ mới ra tên là
Altair 8800. Wozniak, nhờ vậy, được truyền cảm hứng, và ngay lập tức bắt tay
vào làm chiếc máy tính kỳ diệu của riêng ông. Ba tháng sau, ông hé lộ phát minh
tuyệt vời của mình cho người bạn Steve Jobs. Wozniak đã định công bố phát minh
của mình rộng rãi và miễn phí, nhưng Jobs thuyết phục ông cùng sáng lập hãng
máy tính Apple.
@Andy Rementer
Câu chuyện về sự sinh ra của Apple dậy cho chúng ta một bài học về
sức mạnh của sự hợp tác. Wozniak đã có thể không được truyền cảm hứng bởi Altar
nếu không có những người bạn hợp ông như CLB Ủ-bia-tại-nhà. Và có thể ông sẽ
không bao giờ sáng lập Apple nếu không có Steve Jobs.
Nhưng nó đồng thời cũng là một bài học về tinh thần độc lập.
Nếu bạn quan sát cách mà Wozniak đã làm việc - sự miệt mài cố gắng để tạo nên
điều gì đó từ không gì cả - bạn sẽ nhận ra rằng ông đã làm nó một mình. Trong
những đêm khuya thức trắng, hoàn toàn đơn độc.
Trong cuốn hồi ký, Wozniak đã hướng dẫn thế này cho những
nhà phát minh tương lai:
“Phần lớn những nhà phát minh và các kỹ sư tôi đã gặp đều có
có điểm chung như tôi … họ sống trong cái đầu của họ. Họ gần như là những
người nghệ sĩ vậy. Thực ra, những người xuất chúng nhất trong số họ là những
nghệ sĩ. Và nghệ sĩ thì làm việc tốt nhất khi ở một mình … Tôi sẽ cho các bạn
một lời khuyên mà hẳn các bạn sẽ thấy lạ lùng lắm. Lời khuyên là: Hãy làm
việc một mình … Không phải với một đội ngũ. Cũng chẳng phải trong một
nhóm."
Vậy mà, tư duy nhóm kiểu mới đã chiếm lấy những không gian
làm việc của chúng ta, trường học của chúng ta, các tổ chức tôn giáo của chúng
ta. Tất cả những ai từng ước ao một không gian không ô nhiễm bởi tiếng chuông
điện thoại trong văn phòng, hay những ai đã từng đánh dấu trên lịch một cuộc
hẹn giả để trốn tránh một cuộc hẹn thật đều hiểu tôi đang nói về cái gì. Thực
tế là tất cả những người lao động ở Mỹ bây giờ đều dành thời gian làm việc
nhóm, với khoảng 70% phải làm trong những văn phòng có không gian thiết kế mở -
nơi mà không ai có nổi một căn phòng cho riêng mình. Trong những thập niên gần
đây, diện tích không gian trung bình mỗi nhân viên có được giảm xuống chỉ còn
khoảng 19 mét vuông (năm 2010) từ con số 47 mét vuông (những năm 1970).
Trường học của chúng ta cũng đã thay đổi diện mạo bởi tư duy
tập thể kiểu mới này. Ngày nay, các em học sinh tiểu học thường được xếp vào
những tốp khác nhau để thuận lợi hơn cho việc thúc đẩy học nhóm. Ngay cả những
môn học như toán hay sáng tác văn học cũng được dậy theo kiểu dự án nhóm. Trong
một lớp bốn của một trường tiểu học tôi có dịp ghé thăm ở New York, học sinh
trong mỗi nhóm không được phép đặt câu hỏi trừ khi tất cả thành viên trong nhóm
đều có chung câu hỏi đó.
Thứ tư duy tập thể kiểu mới này còn xuất hiện trong những tổ
chức tôn giáo thế lực nhất. Rất nhiều nhà thờ lớn thường tổ chức hoạt động
ngoại khoá theo nhóm với mỗi hoạt động họ có thể nghĩ ra được , từ việc dạy con
ra sao tới trượt ván hay đầu tư bất động sản, và kì vọng những người theo đạo
cùng tham gia. Không những vậy, họ còn thúc đẩy kiểu tôn sùng màu mè điệu bộ -
yêu Chúa Jesus ra thành lời, cho tất cả các giáo dân nhìn thấy. “Thường thì vai
trò của một mục sư trông có vẻ như gần với giám đốc nhà thờ hơn là một người
bạn tâm linh hay một người chỉ dắt”, Adam Mchugh - một mục sư Phúc âm đồng thời
là tác giả cuốn sách “Những người hướng nội trong Nhà thờ” - nói.
(Nguồn: Sưu tầm)
No comments:
Post a Comment